TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 186/2019/HSST NGÀY 23/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 23 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 156/2019/HSST ngày 4 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đỗ Minh T; Giới tính: Nam
Tên gọi khác: Minh Thư.
Sinh năm 1989 tại Đồng Nai
Nơi cư trú: D, ấp N, xã H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
Quốc tịch: Việt Nam ; - Dân tộc: Kinh ; - Tôn giáo: Không.
Nghề nghiệp: buôn bán ; Chức vụ: không ; Trình độ học vấn: 12/12.
Họ tên cha: Đỗ Thanh E, sinh năm 1966, (còn sống).
Họ tên mẹ: Nguyễn Thị R, sinh năm 1966, (còn sống).
Bị cáo là con duy nhất trong gia đình, chưa có vợ, con.
Tiền án:
+ Ngày 25/02/2011, bị Tòa án nhân dân TP. B, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 119/2011/HSST ngày 25/02/2011.
Tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt giữ ngày 19/12/2018, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 51/LTG ngày 26/12/2018 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Được thay thế biện pháp ngăn chặn tạm giam và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 07/01/2019. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đỗ Minh T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy tổng hợp (hàng đá) từ tháng 5/2018. Khoảng 09 giờ ngày 19/12/2018, đối tượng tên Tý (không rõ nhân thân, lai lịch) đem 01 gói ma túy đến nhà của T tại địa chỉ D, ấp N, xã H, thành phố B để bán cho T với giá 1.000.000đ (Một triệu đồng). Sau khi mua, T lấy một phần để sử dụng, số ma túy còn lại T phân thành 12 gói nhỏ cất vào túi vải màu đen để dưới nền nhà trong phòng khách để sử dụng dần. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố B kiểm tra phát hiện T đang tàng trữ trái phép chất ma túy, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang để điều tra xử lý.
Vật chứng vụ án:
+ 12 (Mười hai) gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá) được niêm phong có chữ ký của Đỗ Minh T và hình dấu tròn đỏ của Công an xã H.
+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, số điện thoại 0933.903.297, số Imei 353300075049368 và số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) của Đỗ Minh T.
* Tại Bản kết luận giám định số 63/PC09-GĐMT ngày 26/12/2018, của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong (ký hiệu M) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 1,1975gam loại: Methamphetamine ” Tại cáo trạng số 164/CT/VKS-BH ngày 02 tháng 4 năm 2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố bị cáo Đỗ Minh T, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội nêu tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo điều khoản và tội danh như đã nêu trên; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như sau: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo T không có tình tiết năng nặng trách nhiệm hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Đỗ Minh T từ 01 (một) năm đến 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù.
Tại phiên tòa, bị cáo T không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong lời nói sau cùng bị cáo đã nhận thức hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Về án phí: Bị cáo Đỗ Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an TP. B, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân TP. B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét thấy, tại phiên tòa bị cáo Đỗ Minh T khai nhận, bị cáo là người nghiện ma túy.
Khoảng 22 giờ ngày 19/12/2018, tại nhà số D, ấp N, xã H, thành phố B, Đỗ Minh T đang tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,1975 gam thì bị bắt quả tang.
[3] Về tội danh:
Xét thấy, lời khai của bị cáo T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Đỗ Minh T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân thành phố B đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự; gây tác hại cho sức khỏe và gây ảnh nghiêm trọng đến trật tự trị an tại địa phương. Bản thân bị cáo cũng đủ nhận thức và biết ma túy là chất gây nghiện có tác hại rất lớn cho người sử dụng và đối với xã hội, bị cáo cũng nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Song với nhu cầu của bản thân mà bị cáo đã bất chấp pháp luật và cố tình vi phạm. Nên cần phải có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và có tác dụng răn đe, đấu tranh phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Đỗ Minh T không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Minh T tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Với các tình tiết giảm nhẹ trên, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo Đỗ Minh T tàng trữ trái phép chất ma túy với số lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy. Bị cáo đều không có nghề nghiệp ổn định, bản thân lại nghiện chất ma túy, nên không có điều kiện để thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng trong vụ án:
Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là 1,1384 gam.
- Trả lại cho Đỗ Minh T 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, số điện thoại 0933.903.297, số Imei 353300075049368 và số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vì không liên quan đến vụ án.
(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 4 năm 2019 và biên lai thu số 000391 ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. B).
[9] Đối với tên Tý là người đã bán ma túy cho Đỗ Minh T, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tiến hành xác minh xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo Đỗ Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Đối với phần trình bày và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP. B tại phiên tòa, xét thấy tương đối phù hợp với những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định về vụ án.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đỗ Minh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Đỗ Minh T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/9/2018. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Thời gian bị cáo T bị tạm giữ từ ngày 19/12/2018 đến ngày 07/01/2019 được trừ vào thời hạn tù nêu trên.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
- Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định có khối lượng là 1,1384 gam.
- Trả lại cho Đỗ Minh T 01 (Một) chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus, số điện thoại 0933.903.297, số Imei 353300075049368 và số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) vì không liên quan đến vụ án.
(Toàn bộ số vật chứng nêu trên được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 4 năm 2019 và biên lai thu số 000391 ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự TP. B).
Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đỗ Minh T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Đỗ Minh T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 186/2019/HSST ngày 23/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 186/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/04/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về