TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 185/2020/HS-PT NGÀY 27/05/2020 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 27 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 128/2020/TLPT-HS ngày 02 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo Đồng Bảo Q do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 52/2020/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố B.
Họ và tên: Đồng Bảo Q; tên gọi khác: Không; sinh năm 1974, tại Bình Dương. Nơi cư trú: 140/5/3b, đường Phạm Văn D, khu phố 4, phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai. Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 01/12; nghề nghiệp: Không; con ông Đồng Văn S và bà Nguyễn Thị G (đã chết); bị cáo là con duy nhất trong gia đình, có vợ tên: Lý Thị Anh Đ, sinh năm 1975 và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 29/7/2009, bị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2008. Q chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/5/2016 và đã đóng án phí ngày 12/10/2009. Hiện đã chấp hành xong bản án.
Bị bắt quả tang ngày 03/10/2019, chuyển lệnh tạm giam số 466 ngày 11/10/2019. Hiện bị cáo bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B (Bị cáo có mặt)
Ngoài ra, còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đồng Bảo Q thuê trọ tại phòng trọ thuộc nhà số 79/40A, tổ 20, khu phố C, phường H, TP. B, tỉnh Đồng Nai (do ông Phan Văn T quản lý).
Khoảng 09 giờ ngày 03/10/2019, Q sang khu vườn nhà của anh Phan Duy Đ (bên cạnh dãy trọ do Q thuê ở) tại tổ 20 khu phố C, phường H, thành phố B đuổi bắt gà của anh Đ thì bị anh Đ phát hiện. Anh Đ chửi Q, Q lấy 01 cái xẻng tại vườn và dùng xẻng dọa đánh anh Đ. Anh Đ bỏ chạy và làm rơi 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime ở dưới đất. Thấy anh Đ bỏ chạy, Q nhặt điện thoại đem về phòng trọ của Q sử dụng nghe nhạc và sẽ trả lại cho anh Đ sau.
Khoảng 09 giờ 15 phút cùng ngày, anh Đ đến Công an phường H trình báo sự việc. Ban chỉ huy Công an phường H cử các anh Đoàn Minh T (Công an phường H) và anh Lưu Anh K (Bảo vệ dân phố) đến phòng trọ nhà số 79/40A, tổ 20, khu phố C, phường H, TP. B để giải quyết sự việc. Khi anh Đoàn Minh T và anh Lưu Anh K cùng với anh Đ đến phòng trọ của Q thì thấy Q đang cầm điện thoại di động nghe nhạc. Anh T hỏi Q về việc lấy chiếc điện thoại của anh Đ thì Q ném chiếc điện thoại của anh Đ xuống đất làm vỡ màn hình, khung máy cong vênh, mặt kính trước bị vỡ vụn. Anh T yêu cầu Q về trụ sở Công an phường làm việc, nhưng Q không chấp hành mà dùng tay liên tiếp đánh trúng vào phía sau vai trái của anh K và đánh trúng vào nón bảo hiểm của anh T đang đội trên đầu làm chiếc nón bị vỡ phần bên trái (anh T và anh K không bị thương tích) thì bị Công an phường H, thành phố B bắt quả tang.
* Vật chứng gồm:
- 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime số sêri: R58J14VE1KH màu hồng;
- 01 nón bảo hiểm loại “nón sơn” màu đỏ, bị vỡ phần bên trái.
* Kết luận định giá số 464/TCKH-HĐĐG ngày 03/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận:
Trị giá điện thoại Samsung Galaxy J7 tại thời điểm xảy ra vụ án là 1.995.000đ (Một triệu chín trăm chín mươi lăm nghìn đồng).
Trị giá điện thoại Samsung Galaxy J7 sau khi bị hư hỏng là 1.197.000đ (Một triệu một trăm chín mươi bảy nghìn đồng).
* Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Phan Duy Đ đã nhận lại chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime số sêri: R58J14VE1KH màu hồng và không yêu cầu Đồng Bảo Q bồi thường trị giá thiệt hại của chiếc điện thoại trên.
Đối với chiếc nón bảo hiểm loại “nón sơn” màu đỏ của anh Đoàn Minh T bị Q làm bể, anh T không yêu cầu Q bồi thường.
* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2020/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố B, Hội đồng xét xử sơ thẩm đã quyết định: Căn cứ vào khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Đồng Bảo Q phạm tội “Chống người thi hành công vụ”.
Xử phạt: Bị cáo Đồng Bảo Q 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng vụ án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 21 tháng 02 năm 2020, bị cáo Đồng Bảo Q có đơn kháng cáo về hình phạt của bản án sơ thẩm, đề nghị được giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa, bị cáo Q giữ nguyên kháng cáo, không giao nộp thêm chứng cứ mới.
* Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
Về thủ tục kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo phù hợp về nội dung, hình thức và trong thời hạn nên xem xét giải quyết.
Về nội dung: Bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội: “Chống người thi hành công vụ” theo Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội. Cấp sơ thẩm cũng đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo; bị cáo kháng cáo xin giảm mức hình phạt nhưng không có tình tiết gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Đồng Bảo Q được làm trong thời hạn luật định phù hợp với quy định tại các Điều 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đồng Bảo Q khai và nhận hành vi phạm tội đúng như tài liệu có tại hồ sơ; mô tả tại bản án sơ thẩm, thể hiện: Khoảng 09 giờ 15 phút ngày 03/10/2019 tại phòng trọ nhà số 79/40A, tổ 20, khu phố C, phường H, TP. B, Đồng Bảo Q đã có hành vi không chấp hành và dùng vũ lực (bằng tay) liên tiếp đánh trúng vào phía sau vai trái của anh Lưu Anh K (Bảo vệ dân phố) và đánh trúng vào nón bảo hiểm của anh Đoàn Minh T (Công an phường H) đang đội trên đầu, làm chiếc nón bị vỡ phần bên trái thì bị Công an phường H, thành phố B bắt quả tang. Do đó, cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đồng Bảo Q về tội danh “Chống người thi hành công vụ” và áp dụng hình phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về mức hình phạt áp dụng:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo Đồng Bảo Q các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ngoài ra không còn tình tiết nào khác.
Trên cơ sở đã phân hóa tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo Q, theo đó bị cáo đã có hành vi dùng vũ lực cản trở người thi hành công vụ là công an viên của Công an phường H, thành phố B thực hiện nhiệm vụ công vụ; hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính tại địa phương. Tòa án nhân dân thành phố B đã xử phạt bị cáo mức án 01 năm 04 tháng tù là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
Bị cáo Đồng Bảo Q kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết hay chứng cứ gì khác nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[4] Các nội dung khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[5] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Đồng Bảo Q phải chịu án phí phúc thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đồng Bảo Q, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 52/2020/HS-ST ngày 17 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố B.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Bị cáo Đồng Bảo Q 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2019.
2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án 185/2020/HS-PT ngày 27/05/2020 về tội chống người thi hành công vụ
Số hiệu: | 185/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về