Bản án 185/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 185/2018/HS-ST NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 155/2018/TLST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 179/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế D, sinh năm 1980 tại Hải Dương. Trú tại: số 138 khu HH, thị trấn NS, huyện NS, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thế T và bà Nguyễn Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Vân A và 01 con sinh năm 2004; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19 ngày 09/6/2016 Tòa án nhân dân huyện NS, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Chấp hành xong hình phạt ngày19/01/2017), tiền  sự: Ngày 13/5/2017 bị Công an huyện NS xử phạt vi phạm hành chính 2.000.000đ về hành vi tàng trữ trãi phép chất ma túy (Nộp phạt ngày 04/10/2017); ngày 26/9/2017 bị Công an huyện NS xử phạt vi phạm hành chính 350.000đ về hành vi đánh bạc (Nộp phạt ngày 29/9/2017); nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 27 ngày 29/7/2009 Tòa án nhân dân huyện NS xử phạt 04 năm tù về các tội “Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản” (Được đặc xá tha tù trước hạn ngày 30/8/2010); ngày 19/8/2003 bị Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về ma túy công an tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính 100.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Nộp phạt ngày 22/8/2003); ngày

12/4/2007 bị Công an thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính

500.000đ về hành vi đánh bạc (Nộp phạt ngày 12/4/2007) bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/5/2018 đến ngày 25/5/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi-Công an Hải Dương đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Những người tham gia tố tụng khác:

* Người làm chứng:

+ Anh Kiều Văn K, sinh năm 1991; trú tại: Thôn PX, xã NS, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương (vắng mặt);

+ Anh Chử Hữu Tuấn A, sinh năm 1992; trú tại: 14/207 TM, phường PNL, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tại bản cáo trạng số 168/CT-VKSTPHD ngày 15/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Thế D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự với căn cứ: 

Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 20/5/2018, tại phố Tự Đông thuộc Khu 4 phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương. Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an tỉnh Hải Dương phối hợp với công an phường Cẩm Thượng phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thế D có hành vi cất giấu trái phép một túi nilon màu trắng kích thước khoảng 1x1,5cm bên trong có chứa chất tinh thể rắn màu trắng D tự khai là ma túy đá cất giấu để sử dụng cho bản thân. Quá trình bắt, thu giữ túi ma túy của D có sự chứng kiến của anh Kiều Văn K ở Thôn PX, xã NS, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương và anh Chử Hữu Tuấn A ở 14/207 TM, phường PNL, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

Tại cơ quan điều tra Nguyễn Thế D khai nhận: Do bản thân có sử dụng ma túy nên khoảng 14 giờ ngày 20/5/2018, D đi đến khu vực chợ ở khu đô thị Tuệ Tĩnh, gặp và mua của một nam thanh niên không quen biết một túi ma túy đá với giá 200.000đ, sau khi mua được túi ma túy D cầm trên tay đi đến phố Tự Đông thì bị phát hiện bắt giữ.

Tại kết luận giám định số 356/KLGĐ-PC54 ngày 23/5/2018 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất rắn (dạng tinh thể) mầu trắng ghi thu của Nguyễn Thế D gửi đến giám định có khối lượng là 0,338 gam là loại Methamphetamine. Hoàn trả 0,242 gam Methamphetamine.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thế D thừa nhận vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 20/5/2018 bị cơ quan điều tra công an tỉnh Hải Dương bắt giữ do đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép một túi Methamphetamine để sử dụng cho bản

thân. Bị cáo nhất trí với kết luận giám định; thể hiện thái độ ăn năn hối cải; công nhận Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế D từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/5/2018.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ mẫu vật là Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Thế D có tội và áp dụng pháp luật:

Bị cáo Nguyễn Thế D thừa nhận vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 20/5/2018, tại phố Tự Đông thuộc Khu 4 phường Cẩm Thượng, thành phố Hải Dương. Đã cố ý thực hiện hành vi cất giấu trái phép một túi Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với các chứng cứ khác như: Bản tự khai của bị cáo, biên bản lấy lời khai bị cáo, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản lấy lời khai của người làm chứng đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép ma túy là loại Methamphetamine có khối lượng 0,338 gam nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố và bị đưa ra xét xử về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự là đủ căn cứ, đúng người thực hiện hành vi phạm tội và đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người đã bị kết án chưa được xóa án tích lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Mặt khác, bị cáo có bố đẻ được tặng thưởng huy chương kháng chiến nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, phạm tội trong trường hợp tái phạm nên cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn thì mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng cơ quan giám định hoàn lại; xét thấy Methamphetamine là chất Nhà nước cấm lưu hành, vỏ bao gói không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy

Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. [2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra

viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về các vấn đề khác: Hành vi bán ma túy cho D của đối tượng nam giới không xác định được nên cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm của người này là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; điểm h Khoản 1 Điều 52; điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế D 19 (mười chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 20/5/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Methamphetamine và vỏ bao gói hoàn trả sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 356/KLGĐ-PC54.

 (Vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thế D phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thế D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 185/2018/HS-ST ngày 25/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:185/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về