Bản án 185/2018/HS-PT ngày 24/04/2018 về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 185/2018/HS-PT NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Trong ngày 24/4/2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 145/2018/TLPT-HS, ngày 16/3/2018 đối với bị cáo Nguyễn Thanh S do có kháng cáo của bị cáo S đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thanh S (Tên gọi khác: “S Anh”); giới tính: nam; sinh năm 1980, tại tỉnh Hải Dương; nơi đăng ký thường trú: Thôn KT, xã TT, huyện GC, tỉnh Hải Dương; tạm trú: Tổ 1, khu phố ĐS, phường XT, thị xã XD, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Văn H - sinh năm 1955 và bà Bùi Thị V - sinh năm 1950; Bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Không;

Nhân thân: Theo bản án số 61/2016/HSST ngày 13/6/2016 của Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt, tạm giam ngày 02/10/2017. (Có mặt tại phiên tòa)

- Bị hại ông Phạm Văn M không kháng cáo và không liên quan đến việc kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S nên Hội đồng xét xử không triệu tập đến phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ ngày 04/3/2010, Lê Thành Đ, Nguyễn Thanh S, Trần Thanh H, S2, N và hai thanh niên (không rõ lai lịch) cùng nhau bàn cách khống chế lấy tiền và tài sản của Phạm Văn M, xuất phát từ việc ngày 03/3/2010 M tự ý rủ Lê Quang N đánh bài bịp ăn tiền và ăn 16.500.000 đồng mà không cho Đ biết và cũng không chia tiền cho Đ.

Bọn chúng bàn nhau thuê xe taxi đến nhà vợ bé của M ở huyện Z để bắt M nhưng sợ M tri hô cướp nên H1 phân công Đ gọi điện thoại kêu M ra quán “PG” ở số 166 đường TT, phường TT, quận X, còn S cùng Đ bắt M đưa lên xe taxi do H1, N thuê sẵn, H1 nói làm thế nào để khống chế lấy lại số tiền 200.000.000 đồng từ M.

Sau khi bàn bạc xong, Đ và đồng bọn đi taxi đến quán “PG” tại quận X, khi đến nơi thì Đ, Nguyễn Thanh S đi vào quán còn S2 và hai thanh niên chờ ở chỗ taxi đang đậu. Đ gọi điện thoại cho M nói đang ngồi nhậu với một người thầu xây dựng có rất nhiều tiền và kêu M ra đánh bài ăn tiền.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày Phạm Văn M điều khiển xe Honda SH 150i mang biển số 52P6-8893 đến quán “PG”, đến nơi Đ kêu M ra ngoài quán nói chuyện, M vừa ra khỏi quán đến gần chiếc taxi thì bị Thanh S dùng hai tay ôm ngang hông M cùng tên Đ đẩy M lên xe taxi, S2 kêu tài xế chạy về hướng Quận Y, trên đường đi Thanh S và S2 khống chế đánh M buộc M đưa lại số tiền 200.000.000 đồng đã thắng trong những ván bài trước đây, M gọi điện thoại cho người nhà là Nguyễn Tuyết V mang tiền đến cầu vượt An Sương để M làm ăn, sau khi nghe xong S2 giật điện thoại lại và dùng tay đánh vào mặt M, Thanh S lấy giấy và viết đưa cho M buộc M phải viết theo nội dung sau: M nợ Thanh S số tiền 200.000.000 đồng và thế chấp 01 xe Honda SH 150i mang biển số 52P6-8893 giá 5.000 USD rồi đưa M ký tên xác nhận S yêu cầu M đưa đủ số tiền 200.000.000 đồng, M lấy chiếc bóp ra lấy dây chuyền, nhẫn cùng số tiền1.000.000 đồng, 200 USD, giấy đăng ký xe Honda SH 150i mang biển số 52P6- 8893 đưa cho S sau đó bọn chúng thả M xuống khu vực Cầu CB ở Quận Y. M điện thoại gia đình đến đón và báo lại toàn bộ sự việc với Công an.

Ngày 18/6/2010 Lê Thành Đ bị Công an bắt giữ đến ngày 16/9/2011 bị Tòa án nhân dân quận X xử phạt 09 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 02 năm tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”. Tổng hợp hình phạt chung cho 2 tội là 11 năm tù.

Đối với Nguyễn Thanh S đã bỏ trốn đến ngày 02/10/2017 bị Công an quận X bắt giữ và xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân quận X truy tố bị cáo Nguyễn Thanh S về tội “ Bắt giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản” theo điểm a khoản 2 Điều 123 và điểm a, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 12/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Bắt giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 123; điểm a, e khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Nguyễn Thanh S 02 (hai) năm tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” và 10 (mười) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho 2 tội là 12 (mười hai) năm tù.

Ngoài ra, Bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Đối với Trần Văn H1 và những người có liên quan trong vụ án hiện nay đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra cũng cố hồ sơ xác minh truy tìm, khi nào bắt được sẽ làm rõ xử lý sau về phần trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.

Ngày 09/02/2018, bị cáo Nguyễn Thanh S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Thanh S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Từ đó đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và y án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thanh S không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 05/02/2018 Tòa án nhân dân quận X xét xử sơ thẩm, đến ngày 09/02/2018, bị cáo Nguyễn Thanh S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo được lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Để có tiền tiêu xài cho bản thân, Nguyễn Thanh S cùng đồng bọn là Lê Thành Đ, Trần Văn H1, S2, N và hai thanh niên (không rõ lai lịch) bàn bạc việc khống chế bắt giữ Phạm Văn M để cướp tiền và tài sản. Phương thức và thủ đoạn là thuê xe taxi cùng đồng bọn chờ sẵn tại quán “PG” trên đường TT, phường TT, quận X, sau đó gọi M ra quán bàn chuyện làm ăn. Khi M chạy xe Honda SH đến quán và vào bàn ngồi thì tên Đ mời M ra ngoài có chuyện cần bàn, khi M ra ngoài gần đến chỗ xe taxi đang đậu chờ sẵn thì bị cáo Nguyễn Thanh S dùng hai tay ôm ngang hông M và cùng tên Đ đẩy M lên xe taxi rồi dùng vũ lực và khống chế yêu cầu M viết giấy nhận nợ, sau đó chiếm đoạt tài sản bao gồm: 01 xe Honda SH, 01 nhẫn vàng, 01 dây chuyền vàng, tiền mặt 1.000.000 đồng, 200 Đô la Mỹ và giấy đăng ký xe Honda SH 150i mang biển số 52P6-8893. Hành vi của bị cáo S cùng đồng bọn kết thúc khi chiếm đoạt được tài sản của bị hại Phạm Văn M.

Do đó, hành vi của bị cáo Nguyễn Thanh S đã phạm vào các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 123 và khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tòa án nhân dân quận X đã xét xử bị cáo về tội các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cướp tài sản” theo khoản 2 Điều 123 và khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo S: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa chính xác, mà phải áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009, ngoài ra cấp sơ thẩm còn thiếu sót khi không xem xét tình tiết cha ruột bị cáo là người có công với cách mạng theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009 là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Cùng với đó, Tòa án cấp sơ thẩm cũng xem xét đến các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, cụ thể là: bị cáo S là đồng phạm với vai trò tích cực trong vụ án, bị cáo đã có hành vi khống chế buộc M lên xe taxi để có nhóm thực hiện hành vi bắt giữ người trái pháp luật và đánh M để cướp tài sản. Hành vi của bị cáo cùng các đồng phạm thể hiện sự liều lĩnh, thể hiện ý thức xem thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền tự do của công dân.

Sau khi phạm tội bị cáo S còn bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tài liệu chứng cứ nào mới để làm cơ sở xem xét giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử sau khi cân nhắc đến nhân thân người phạm tội, đến tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhận định mặc dù cấp sơ thẩm có thiếu sót khi không xét đến tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhưng mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, từ đó Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và cần y án sơ thẩm.

[4] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 12/2018/HS-ST ngày 05/02/2018 của Tòa án nhân dân quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”.

3. Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 123; điểm a, e khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009;

Xử phạt: Nguyễn Thanh S 02 (hai) năm tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 10 (mười) năm tù về tội “Cướp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho 02 tội là 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02 tháng 10 năm 2017.

4. Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Bị cáo Nguyễn Thanh S phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là: 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

518
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 185/2018/HS-PT ngày 24/04/2018 về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản

Số hiệu:185/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về