Bản án 184/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 184/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 27/9/2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 81/2021/TLST-HNGĐ, ngày 13/5/2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23/8/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 09 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Thanh Th, sinh năm 1979;

Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

- Bị đơn: Chị Tạ Thị L, sinh năm 1982;

Địa chỉ: Thôn B, xã S, huyện Y, tỉnh Tuyên Quang.

(Anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt chi L vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trần Thanh Th trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Tạ Thị L chung sống với nhau từ năm 1999 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống với nhau được tự do tìm hiểu, tự nguyện chung sống, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Tình cảm trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến khoảng năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Thực tế anh và chi L đã sống ly thân nhau từ năm 2011 cho đến nay. Anh Th xác định không còn tình cảm với chi L đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận giữa anh và chị Tạ Thị L là vợ chồng - Về con chung: Trong quá trình chung sống anh và chị Tạ Thị L có 01 con chung là cháu Trần Phương D, sinh ngày 09/3/2000 hiện đã trưởng thành, nên không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh và chi L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về vay nợ chung: Anh Th xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

* Bị đơn chị Tạ Thị L đã được Tòa án tiến hành triệu tập nhiều lần nhưng chi L đều không có mặt, không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Qua làm việc trực tiếp với người thân (em trai ruột của chi L) xác định chi L hiện đi làm ăn xa, nhưng thường xuyên liên lạc với gia đình, thi thoảng vẫn về chơi. Khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo phiên họp kiểm tra chứng cứ và hòa giải gia đình đều thông báo lại cho chi L biết nội dung và được chi L cho biết quan điểm là nhất trí với yêu cầu của anh Th vì hai người đã sống ly thân nhau đã lâu, về con chung, tài sản và vay nợ chung chi L không yêu cầu giải quyết. Ngoài ra Tòa án đã nhiều lần tiến hành niêm yết văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng chi L vẫn cố tình không đến Tòa án giải quyết thuộc trường hợp cố tình trốn tránh.

* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát:

- Về tố tụng: Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đối với bị đơn chưa chấp hành việc triệu tập của Tòa án.

- Về nội dung: Anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L chung sống với nhau từ năm 1999 nhưng không có đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định, xong các bên không thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn mà vẫn chung sống cùng nhau là hôn nhân bất hợp pháp. Căn cứ vào các quy định của Luật hôn nhân và gia đình, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L là vợ chồng. Về con chung, tài sản và vay nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc anh Trần Thanh Th phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Trần Thanh Th có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn chị Tạ Thị L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L chung sống với nhau từ năm 1999 đến nay nhưng không có đăng ký kết hôn. Trước khi chung sống với nhau được tự do tìm hiểu, tự nguyện chung sống, không bị ai ép buộc và được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương. Tình cảm trong thời gian đầu chung sống hạnh phúc, đến năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính cách không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Khi mâu thuẫn xảy ra anh Th và chi L đã sống ly thân với nhau từ năm 2011 đến nay và không còn quan tâm gì đến nhau nữa.

Hội đồng xét xử thấy rằng tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định: “Việc kết hôn do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi thường trú của một trong hai người kết hôn công nhận và ghi vào sổ kết hôn theo nghi thức do Nhà nước quy định... Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị pháp lý.” và tại điểm c khoản 3 Nghị quyết số: 35/2000/QH10, ngày 09/6/2000 của Quốc hội quy định: “Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng”. Qua xác minh tại UBND xã Thái Hòa và UBND xã Thái Sơn xác định từ năm 1988 đến thời điểm xác minh không có trường hợp nào đăng ký kết hôn có tên chồng là Trần Thanh Th và vợ là Tạ Thị L.

Như vậy anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L chung sống với nhau từ năm 1999 đến nay không có đăng ký kết hôn mặc dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định, xong các bên không thực hiện nghĩa vụ đăng ký kết hôn mà vẫn chung sống cùng nhau là hôn nhân bất hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Do vậy cần xử không công nhận anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L là vợ chồng là phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về con chung: Anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L có 01 con chung là cháu Trần Phương Dung, sinh ngày 09/3/2000, hiện đã trưởng thành, anh Th không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản: Anh Th xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh Trần Thanh Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều Điều 28; 147; 227; 228; 235; 238; 266; 267; 271; 273 - Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 14 - Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận Anh Trần Thanh Th và chị Tạ Thị L là vợ chồng.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Trần Thanh Th phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số 0004497, ngày 13/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên.

Chị Tạ Thị L không phải chịu án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được hay niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 184/2021/HNGĐ-ST ngày 27/09/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:184/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về