Bản án 184/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH T

BẢN ÁN 184/2018/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 141/2018/TLST/HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2018 về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị P ; Sinh năm 1984. Có mặt. Địa chỉ: Thôn 4B xã Đ , thành phố T , tỉnh N .

2. Bị đơn: Anh Lê Trí T ; Sinh năm 1982. Nơi ĐKHKTT: Thôn 1 xã T , huyện T tỉnh T

Hiện nay đã bị Tòa án nhân dân huyện T tuyên bố là người mất tích theo Quyết định số 09/2018 ngày 15/3/2018

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, tại bản tự khai và tại phiên tòa Nguyên đơn là chị Lê Thị P trình bày:

Về hôn nhân: Chị P và anh Lê Trí T tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn vào ngày 15/4/2010 tại UBND xã Đ , thành phố T, tỉnh N. Vợ chồng chung sống được thời gian ngắn thì sảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do không hợp nhau. Năm 2013 mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng anh T đã bỏ về chung sống cùng bố mẹ đẻ. Tháng 3/2015 anh T đã bỏ đi đâu không xác định được địa chỉ. Chị P và gia đình, bạn bè tìm kiếm khắp nơi nhưng vẫn không có tin tức gì của anh T nên chị P yêu cầu Tòa án nhân dân huyện T tuyên bố anh Lê Trí T là người mất tích.

Tại Quyết định số 09/2018 ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên bố anh Lê Trí T là người mất tích. Kể từ ngày Tòa án tuyên bố anh T là người mất tích đến nay anh T vẫn không trở về địa phương. Vợ chồng đã sống ly thân và cắt đứt mọi quan hệ tình cảm từ tháng 3/2015 đến nay. Nay chị P nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu được ly hôn với anh Lê Trí T .

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Yến D, sinh ngày 13/02/2011 và cháu Lê Quang A, sinh ngày 10/8/2013. Hiện nay cả hai con chung đang ở với chị P. Nguyện vọng của chị P yêu cầu nuôi cả hai con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung.

Tại bản tự khai của cháu Lê Yến D ngày 14/8/2018 thì cháu D có nguyện vọng ở với mẹ.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lê Thị P và anh Lê Trí T là hôn nhân hợp pháp tại vì anh chị đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật. Sau khi cưới anh chị chung sống được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2015 đến nay. Tháng 3/2015 anh T đã bỏ đi khỏi địa phương không rõ địa chỉ, chị P đã yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T là người mất tích. Tại Quyết định số 09/2018/QĐST - DS ngày 15/3/2018 Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên bố anh Lê Trí T là người mất tích. Từ ngày Tòa án tuyên bố anh T là người mất tích đến nay anh T vẫn không có tin tức gì, chị P nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân của anh chị không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 2 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị Lê Thị P ly hôn với anh Lê Trí T là phù hợp.

[2]. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Lê Yến D, sinh ngày 13/02/2011 và cháu Lê Quang A , sinh ngày 10/8/2013. Hiện nay cả hai con chung đang ở với chị P. Nguyện vọng của chị P yêu cầu nuôi cả hai con chung. HĐXX xét thấy hiện tại anh T là người mất tích nên giao cả hai con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp theo quy định tại các điều 81,82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Tài sản chung của vợ chồng không có nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Chị P phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về hôn nhân: Căn cứ vào khoản 2 điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

Xử ly hôn giữa chị Lê Thị P và anh Lê Trí T .

2. Về con chung: Căn cứ vào các điều 81,82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Giao cả hai con chung là cháu Lê Yến D, sinh ngày 13/02/2011 và cháu Lê Quang A , sinh ngày 10/8/2013 cho chị Lê Thị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Lê Trí T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

2. Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của UBTVQH;

Buộc chị Lê Thị P phải chịu 300.000đ án phí DSST nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ đã nộp tạm ứng án phí theo Biên lai thu số: AA/2016/0000929 ngày 21/6/2018 của Chi cục Thi hành án huyện T .

Chị Lê Thị P được quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Lê Trí T được quyền kháng cáo án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

237
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 184/2018/HNGĐ-ST ngày 23/08/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:184/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:23/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về