TÒA ÁN NHÂN DÂN HỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 184/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ LY HÔN
Ngày 21 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Hện Đức Hòa, tỉnh Long An tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 429/2018/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2018 và quyết định hoãn phiên tòa số: 104/2018/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị L, sinh năm: 1987.
Địa chỉ: Số 00, Tổ Z, ấp N, xã X, Huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Anh H, sinh năm: 1985.
Địa chỉ: Ấp V, xã F, Hện Đức Hòa, tỉnh Long An;
( Chị L xin vắng mặt; Anh H vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 17/4/2018 và những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị L trình bày: Chị L và anh H chung sống với nhau vào năm 2007 đến năm 2012 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã F, Huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất hòa trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cải vả, cuộc sống chung không phù hợp. Nay chị L xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn anh H.
Về con chung: Có 01 con chung tên D, sinh ngày 24/5/2012 hiện chị L đang nuôi. Khi ly hôn, chị L xin được quyền tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với anh anh H, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh H không đến Tòa án nhân dân Hện Đức Hòa, tỉnh Long An làm việc hoặc phản hồi ý kiến của anh H về việc giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả thẩm tra, xét hỏi tại phiên Toà. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp là hôn nhân gia đình, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân Hện Đức Hoà, tỉnh Long An.
[1.2] Về tố tụng: Nguyên đơn chị L xin vắng mặt và bị đơn anh H vắng mặt dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nên căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của BLTTDS năm 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị L và anh H.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị L và anh H chung sống với nhau vào năm 2007 đến năm 2012 mới đi đăng ký kết hôn tại UBND xã F, Hện Đức Hòa, tỉnh Long An nên quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh H là hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị L và anh H chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cải vã dù hai bên đã cố gắng hàn gắn để kéo dài cuộc sống hôn nhân nhưng không được. Chị L tha thiết xin được ly hôn với anh H. Ngược lại, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng cố tình vắng mặt không đến Tòa án dự hòa giải đoàn tụ cũng như không tham dự phiên tòa. Từ đó, Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn gia đình giữa chị L và anh H đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không còn đạt được và cuộc sống chung vợ chồng không thể kéo dài. Vì vậy, chị L yêu cầu được xin ly hôn với anh H là phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.2] Về con chung: Chị L khai, vợ chồng chung sống có 01 con chung tên D, sinh ngày 24/5/2012 hiện nay chị L đang nuôi. Khi ly hôn, chị L xin được quyền tiếp tục nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Ngược lại, anh H đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[2.3] Về tài sản chung: Chị L khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. Ngược lại, anh H đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[2.4] Về nợ chung: Chị L khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. Ngược lại, anh H đã được triệu tập hợp lệ nhưng không phản hồi ý kiến nên Hội đồng xét xử không xem xét nếu sau này có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.
[3] Về án phí: Chị L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L xin ly hôn với anh H.
Về quan hệ hôn nhân: Chị L được ly hôn với anh H.
Về con chung: Chị L được quyền nuôi con chung tên D, sinh ngày 24/5/2012 hiện nay chị L đang nuôi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị L không yêu cầu. Vì quyền L của trẻ, bên không trực tiếp nuôi con được quyền đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Khi cần thiết, chị L có quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, anh H có quyền xin thay đổi quyền nuôi con.
Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sung sơ thẩm công quỹ Nhà nước, được khấu trừ số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị L đã nộp theo biên lai số 2676 ngày 19 tháng 4 năm 2018 của
Chi cục thi hành án dân sự Hện Đức Hoà sang án phí để thi hành. Chị L đã thi hành xong.
Án này là sơ thẩm, chị L và anh H vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết hợp lệ./.
Bản án 184/2018/HNGĐ-ST ngày 21/08/2018 về ly hôn
Số hiệu: | 184/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về