TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 183/2019/HS-ST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 188/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 212/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Lê Hoàng V, sinh năm: 1994, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: đường N, Phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn S và bà Nguyễn Thị H; Có vợ Trần Ái M, sinh năm 1996 có 01 con sinh năm 2017; tiền sự: Ngày 28/8/2016 bị xử lý đưa đi cai nghiện bắt buộc; tiền án: không; bị bắt tạm giam ngày:
16/3/2019; (Có mặt).
Bị hại: Chị Nguyễn Thị Thu N, sinh năm: 1994; Trú tại: đường K, khu phố 4, phường H, quận D, Tp. Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: 1/- Anh Lê Văn T, sinh năm 1978;
Trú tại: phường N, Quận S, Tp. Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền tiêu xài và mua ma túy để sử dụng cho bản thân nên đối tượng tên Tài (chưa rõ lai lịch) rủ Lê Hoàng V đi tìm người có tài sản sơ hở để cướp giật thì V đồng ý. Khoảng 18 giờ ngày 16/3/2019, Tài chạy xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68T9-0531 đến nhà của V chở đi lòng vòng. Khi đang lưu thông trên đường Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp thì Tài phát hiện chị Trần Thúc Lê T chạy xe gắn máy chở chị Nguyễn Thị Thu N ngồi phía sau, chị N có đeo một giỏ xách màu đen nên Tài chỉ cho Việt thấy và rủ V cướp giật giỏ xách của chị N thì V đồng ý. Tài điều khiển xe bám theo xe chị đến trước nhà số 244 Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp thì Tài tăng ga vượt lên ép sát bên phải xe chị T để V ngồi sau dùng tay trái giật được chiếc giỏ xách màu đen chị N đang đeo phía trước người rồi Tài tăng ga chở V tẩu thoát, chị T và chị N tri hô đuổi theo khi đến trước nhà số 317 Thống Nhất, phường 11, quận Gò Vấp thì Tài, V bị ngã xe và bị tổ hình sự đặc nhiệm đuổi kịp bắt giữ được V cùng phương tiện gây án và vật chứng vụ án là chiếc giỏ xách, riêng đối tượng Tài chạy bộ tẩu thoát.
Tại Cơ quan điều tra Lê Hoàng V đã khai nhận hành vi phạm tội Vật chứng thu giữ:
- 01 giỏ xách màu đen hiệu Verchini kích thước 15cm x 20 cm có dây đeo bị đứt, bên trong có số tiền 400.000 đồng của chị Nguyễn Thị Thu N. Ngày 08/10/2019, Cơ quan điều tra đã trả chiếc túi xách và số tiền trên cho chị N. Chị N đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác.
- 01 điện thoại di động hiệu HTC Desire 320 có số Imei 355037060960856 thu giữ của V. (Đây là điện thoại đối tượng Tài cầm cố cho Lê Hoàng V).
- 01 áo sơ mi dài tay màu đen và 01 quần jean màu xanh đen của Lê Hoàng V.
- 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68T9-0531 (phương tiện gây án). Xác minh chủ sở hữu xe là anh Trần Văn K (tỉnh Kiên Giang). Anh K cho biết chiếc xe trên anh mua năm 2005 do anh đứng tên chủ sỡ hữu. Năm 2011 anh K giao lại chiếc xe trên cho em trai ruột là anh Trần Văn Q quản lý và sử dụng. Anh Trần Văn Q cho biết chiếc xe trên anh để tại tiệm sửa xe số 302 Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp. Ngày 16/3/2019, có 01 nam thanh niên tên Tài (không rõ lai lịch, số điện thoại: 0931406500) đem xe gắn máy hiệu Nouvo biển số 59X2 – 023.64 đến tiệm của anh Q để sửa và mượn xe Yamaha Sirius biển số 68T9-0531 để đi tạm nhưng đến nay vẫn chưa quay lại lấy xe đang gửi sửa và cũng chưa trả xe đã mượn cho anh Q, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh Q.
- 01 chiếc xe gắn máy hiệu Nouvo có biển số 59X2 – 023.64, do anh Lê Văn T đứng tên sỡ hữu, anh T cho Lê Anh Tài (là con ruột của anh T) mượn xe để đi chơi, đến tối cùng ngày Tài gọi điện thoại cho anh T biết xe đang sửa tại tiệm 302 Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp. Anh T đến tiệm sửa xe thì nhân viên không cho lấy và yêu cầu Tài đến giải quyết. Anh T nhiều lần liên lạc với Tài nhưng không được, anh T cho biết Tài đang sinh sống cùng mẹ. Công an quận Gò Vấp chưa triệu tập được Tài để làm rõ sự việc. Khi nào xác định được lai lịch của Tài làm rõ sẽ xử lý sau. Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh T.
Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng 01 chiếc điện thoại di động hiệu HTC Desire 320 và 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần jean màu xanh đen.
Tại bản cáo trạng số 184/CTr-VKS, ngày 22/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Lê Hoàng V về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.
Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt bị cáo Lê Hoàng V từ 03 năm đến 03 năm 6 tháng tù.
- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.
- Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại di động hiệu HTC Desire 320, 01 áo sơ mi dài tay màu đen và 01 quần jean xanh đen.
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Lê Hoàng V đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Đối chiếu với điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Lê Hoàng V đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 171 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, giữa nơi công cộng đông người qua lại bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội bất chấp hậu quả xảy ra và bất chấp cả sự trừng trị của pháp luật. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật và Nhà nước bảo hộ, gây mất trật tự trị an xã hội và tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Chỉ vì muốn có tiền để phục vụ cho nhu cầu của bản thân bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh. Xét nhân thân bị cáo đã bị xử lý đi cai nghiện bắt buộc vào năm 2017, vì vậy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài, nhằm giúp bị cáo sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác, tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và học tập cải tạo lại mình trở thành người công dân tốt hơn sau này có ích cho xã hội, đồng thời cũng nhằm có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét một số tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo, thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại người bị hại, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[4] Về hình phạt bổ sung được quy định tại khỏan 5 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Tại phiên tòa hôm nay, bị hại chị Nguyễn Thị Thu N vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện chị đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, hiện không thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 giỏ xách màu đen hiệu Verchini kích thước 15cm x 20 cm có dây đeo bị đứt, bên trong có số tiền 400.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Thu N, Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật nên tại phiên tòa hôm nay không xem xét lại.
- Đối với 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Sirius biển số 68T9-0531 (phương tiện gây án). Qua xác minh chủ sở hữu là anh Trần Văn K, anh K cho biết chiếc xe trên anh mua năm 2005 do anh đứng tên chủ sỡ hữu. Năm 2011 anh K giao chiếc xe trên cho em trai ruột là anh Trần Văn Q quản lý và sử dụng. Anh Trần Văn Q cho biết chiếc xe trên anh để tại tiệm sửa xe số 302 Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp. Ngày 16/3/2019, có 01 nam thanh niên tên Tài (không rõ lai lịch, số điện thoại: 0931406500) đem xe gắn máy hiệu Nouvo biển số 59X2 – 023.64 đến tiệm của anh Q để sửa và mượn xe Yamaha Sirius biển số 68T9-0531 đi tạm nhưng đến nay vẫn chưa quay lại lấy xe đang gửi sửa và chưa trả xe đã mượn cho anh Q, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh Q. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại xe đó là đúng quy định của pháp luật nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.
- Đối với chiếc xe gắn máy hiệu Nouvo có biển số 59X2 – 023.64 qua xác minh do anh Lê Văn T đứng tên chủ sở hữu. Ngày16/3/2019 anh T cho Lê Anh Tài (là con ruột của anh T) mượn xe để đi chơi, đến tối cùng ngày Tài gọi điện thoại cho anh T biết xe đang sửa tại tiệm 302 Lê Đức Thọ, phường 6, quận Gò Vấp. Anh T đến tiệm sửa xe thì nhân viên không cho lấy và yêu cầu Tài đến giải quyết. Anh T nhiều lần liên lạc với Tài nhưng không được, anh T cho biết Tài đang sinh sống cùng mẹ. Qua xác minhCông an quận Gò Vấp chưa triệu tập được với Tài để làm rõ sự việc. Khi nào xác định được lai lịch của Tài, lấy lời khai làm rõ sẽ điều tra xử lý sau. Ngày 08/10/2019, Cơ quan điều tra đã trả chiếc xe trên cho anh T. Hội đồng xét xử xét thấy việc trả lại tài sản đó là đúng quy định của pháp luật nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.
- Đối với chiếc điện thoại di động hiệu HTC Desire 320 có số Imei 355037060960856 thu giữ của V. Qua lời khai của thì chiếc điện thoại này do đối tượng Tài cầm cố cho Lê Hoàng V, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp tạm giữ để xử lý sau khi có kết quả xác minh được đối tượng Lê Anh Tài.
- Đối với 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần jean màu xanh đen bị cáo sử dụng mặc khi thực hiện hành vi phạm tội không còn giá trị sử dụng. Hội đồng xét xử quyết định tịch thu và tiêu hủy.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê Hoàng V phạm tội “Cướp giật tài sản”;
Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Lê Hoàng V 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 16/3/2019.
Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Tịch thu và tiêu hủy 01 áo sơ mi dài tay màu đen, 01 quần jean màu xanh đen.
Giao Chi cục thi hành án dân sự quận Gò vấp 01 điện thoại di động hiệu HTC Desire 320 có số Imei 355037060960856 tạm giữ để xử lý sau khi có kết quả xác minh được đối tượng Lê Anh Tài. (Theo phiếu nhập kho vật chứng số 62/PNK, ngày 28/3/2019 của Công an quận Gò Vấp).
Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 183/2019/HS-ST ngày 19/11/2019 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 183/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về