Bản án 183/2018/HS-ST ngày 21/08/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 183/2018/HS-ST NGÀY 21/08/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 8 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Nha Trang – tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 216/2018/TLST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2018/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 95/2018/HSST-QĐ ngày 03 tháng 8 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Chế Thành Kh - sinh năm: 1988 tại Khánh Hòa; Nơi ĐKHKTT: Thôn T – xã D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Chế Văn C (chết) và bà: Nguyễn Thị Tr; Tiền sự: không có. Tiền án: 01 (Bản án số 106/2007/HSPT ngày 21/5/2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 1 năm tù về tội hủy hại tài sản, chấp hành xong ngày 18/11/2007); Nhân thân: Bản án số 47/2009/HSPT ngày 30/3/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 07 năm tù về tội cướp tài sản. Chấp hành xong hình phạt từ ngày 23/01/2014. Bị tạm giam từ ngày 14/3/2018; có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Tuấn B (Tên gọi khác: L) - Sinh năm: 1992 tại Khánh Hòa; Nơi ĐKHKTT: xã P - huyện D – tỉnh Khánh Hòa; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Thợ hồ; Con ông: Nguyễn M (chết) và bà: Nguyễn Thị Thúy H; Tiền án: không; Tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/3/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Chị Trần Thế T – sinh năm 1986.

Trú tại: Tổ 4 – thôn Đ – Thị trấn D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Trần Thanh T – sinh năm 1987. Trú tại: Tổ 4 – thôn Đ – Thị trấn D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Bà Đỗ Thị Ngọc Nh – sinh năm 1966. Trú tại: thôn N – xã V – Thành phố N – tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị Hương Gi

Địa chỉ thường trú: 3/20 đường T – phường L - Thành phố N – tỉnh Khánh Hòa. Chỗ ở: Phòng trọ xã D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Ông Võ Văn T

Địa chỉ: Thôn T – xã D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa.

Vắng mặt tại phiên tòa.

3. Ông Trần Kim T

Địa chỉ: số 48 đường H – Thị trấn D – huyện D – tỉnh Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 12 tháng 3 năm 2018, Chế Thành Kh điều khiển xe máy hiệu Sirius (BKS: 79N1-130.86) chở Nguyễn Tuấn B đi đến khu vực xã V – Thành phố N – tỉnh Khánh Hòa để mua ma túy về sử dụng. Sau khi mua được ma túy, trên đường quay về, khi đến đoạn trước quán lẩu bò QV – thôn V - xã V – Thành phố N – tỉnh Khánh Hòa trên đường 23/10 (theo hướng từ thành phố N đi huyện D) thì cả hai phát hiện anh Nguyễn Trần Thanh T điều khiển xe máy hiệu Exciter BKS 79D1-476.95 chở chị Trần Thế T, giữa hai người có để 01 túi xách màu trắng. Thấy vậy, Kh rủ B giật giỏ xách trên, B đồng ý. Lúc này Kh điều khiển xe máy áp sát vào xe máy anh T điều khiển, rồi nhanh chóng giật chiếc giỏ xách nhưng chị T giằng lại được. Thấy vậy, B liền dùng tay trái giật mạnh giỏ xách trên tay của chị T, làm chị T té xuống đường. Kh nhanh chóng điều khiển xe chở B tẩu thoát. Trên đường chạy thoát, B ngồi sau lén lục giỏ xách giấu riêng số tiền 1.000.000 đồng. Cả hai chạy về bãi đất trống trước khu nhà trọ tại thôn P, xã D, huyện D, tỉnh Khánh Hòa lục giỏ xách lấy được 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu đen trắng, 2.300.000 đồng, 01 CMND, 01 thẻ ATM mang tên Trần Thế T sau đó vứt giỏ xách ở phía sau khu nhà trọ. Khi về nhà trọ, Kh lấy số tiền vừa chiếm đoạt được để đưa cho Trần Kim T 300.000 đồng mua ma túy, đưa cho Nguyễn Thị Hương Gi 500.000 đồng trả tiền thuê nhà nhưng Gi không đồng ý nhận, đồng thời B và Kh cùng chia nhau số tiền còn lại để tiêu sài (B được chia 700.000 đồng, Kh được 800.000 đồng). Khi đưa tiền cho Gi và T, Kh không nói cho Gi và T biết nguồn gốc số tiền đã đưa.

Sau khi bị cướp giật tài sản, anh T và chị T đến công anh xã V trình báo.

Đến 01 giờ 40 phút ngày 13 tháng 3 năm 2018, Chế Thành Khvà Nguyễn Tuấn Bbị phát hiện đưa về trụ sở Công an làm việc. Kh và B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 105/HĐĐG ngày 23/3/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 Điện thoại di động hiệu Iphone X-64GB trị giá 29.090.000 đồng. Giỏ xách màu trắng hiệu MK, 01 son môi không đủ thông tin định giá. Tổng cộng giá trị tài sản là: 29.090.000 đồng + 3.300.000 đồng tiền mặt = 32.390.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 177/CT-VKSNT ngày 13/6/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đã truy tố các bị cáo về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 – Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đã giữ nguyên kết luận truy tố các bị cáo; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt các bị cáo như sau;

Bị cáo Kh: từ 4 năm đến 5 năm tù.

Bị cáo B: từ 3 năm đến 3 năm 06 tháng tù.

Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội có diễn biến như nội dung cáo trạng đã truy tố và cho rằng bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: tại phiên tòa vắng mặt người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng nhưng xét thấy việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt họ theo các Điều 292 và 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo theo cáo trạng truy tố thì thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo đều đã thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cũng như các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ để xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 12 tháng 3 năm 2018, tại khu vực trước quán lẩu bò QV trên đường 23/10 – thôn V - xã V – Thành phố N – tỉnh Khánh Hòa, Chế Thành Kh và Nguyễn Tuấn B đã cướp giật 01 giỏ xách bên trong có 01 điện thoại hiệu Iphone X – trị  giá 29.090.000 đồng, 01 cây son môi và tiền mặt 3.300.000 đồng. Do cây son môi không đủ thông tin định giá nên có thể xác định giá trị tài sản mà các bị cáo chiếm đoạt là 32.090.000 đồng. Hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 – Bộ luật hình sự. Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Nha Trang đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm, đã dùng xe máy đang lưu thông trên đường là thủ đoạn nguy hiểm tấn công người bị hại nhằm nhanh chóng chiếm đoạt tài sản. Các bị cáo phạm tội mang tính đồng phạm giản đơn, trong đó tính nguy hiểm của hành vi do bị cáo Kh thực hiện có phần cao hơn. Vì bị cáo Kh là người khởi xướng thực hiện phạm tội và cũng là người trực tiếp chiếm đoạt tài sản. Bên cạnh đó, nhân thân bị cáo Kh xấu, đã có 1 lần bị kết án chưa được xóa án tích nên áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ thì Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho người bị hại nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Nguyễn Tuấn B phạm tội lần đầu, nhân thân không có tiền án, tiền sự nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử thấy nên cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[6] Đối với Nguyễn Thị Hương Gi và Trần Kim T không biết nguồn gốc số tiền mà bị cáo Kh đã đưa là do các bị cáo phạm tội mà có nên không có cơ sở xử lý

[7 Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nên tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi họ có đơn khởi kiện.

[8] Về vật chứng:

Đối với chiếc xe máy Yamaha kiểu dáng Sirius đỏ đen số khung RLCC6K0FY200821, số máy 5C6K200830 mà các bị cáo sử dụng để cướp giật tài sản hiện đã chuyển cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện D để xử lý theo thẩm quyền nên không xét.

Đối với 1 CMND và 01 ví da màu nâu là tài sản riêng của bị cáo Nguyễn Tuấn B, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên trả lại.

Đối với 01 biển số xe máy 79N1-130.86 thuộc sở hữu của bà Đỗ Thị Ngọc Nh, tuy nhiên bà Nh khai báo mất chiếc xe máy trên vào khoảng tháng 4/2017 nên không yêu cầu nhận lại biển số xe mà yêu cầu Cơ quan Cảnh Sát điều tra truy tìm tội phạm. Do vậy, nên giao lại cho Cơ quan Cảnh sát Điều Tra – Công an Thành phố N để xử lý theo quy định.

[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm d khoản 2 Điều 171; điêm h khoản 1 Điêu 52; điêm s khoản 1 và khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Chế Thành Kh;

- Điểm d khoản 2 Điều 171; điêm s khoan 1 và khoản 2 Điêu 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Tuấn B;

- Điều 106, Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Chế Thành Kh và Nguyễn Tuấn B phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Chế Thành Kh 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 14/3/2018.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tuấn B 03 (ba) năm tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 14/3/2018.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên nếu có yêu cầu về dân sự sẽ được xem xét, giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có đơn khởi kiện.

Về vật chứng:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Tuấn B 01 CMND và 01 ví da theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/06/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an Thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang.

- Giao lại cho Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an Thành phố Nha Trang 01 biển số xe 79N1-13086 theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/6/2018 giữa Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an Thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Nha Trang.

Về án phí: Các bị cáo mỗi người phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm. Người bị hại, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

389
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2018/HS-ST ngày 21/08/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:183/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về