Bản án 183/2018/HS-PT ngày 04/04/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 183/2018/HS-PT NGÀY 04/04/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 65/2018/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Lê Thị H và các bị cáo khác do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 241/2017/HS-ST ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.

* Các bị cáo có kháng cáo:

1. LÊ THỊ H, sinh ngày 05/10/1962 tại Nam Định; ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 12, thị trấn X T, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Qt và bà Nguyễn Thị M (đều đã chết); có chồng Nguyễn Hoài N và 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1996; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: năm 2013, Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017, có mặt.

2. HOÀNG VĂN C, sinh ngày 10/01/1973 tại Nam Định; ĐKHKTT và nơi cư trú: Tổ 10, thị trấn X T, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Xuân S và bà Nguyễn Thị T (đều đã chết); có vợ Bùi Thị L và 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: năm 2013, Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 11/5/2017 đến ngày 10/8/2017, hiện tại ngoại có mặt.

3. ĐẶNG THỊ L, sinh năm 1969 tại Hà Nội; ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn K C, xã T L, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn B và bà Phạm Thị C (đều đã chết); có chồng Trần Văn T (đã chết) và 02 con, con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: năm 2013, Công an quận Hoàn Kiếm xử phạt hành chính về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017, hiện tại ngoại có mặt.

Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Thị L không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị H, Đặng Thị L, Nguyễn Thị Lvà Hoàng Văn Cquen biết nhau từ năm 2013. Đầu tháng 5/2017, H, L, L và C bàn bạc với nhau về việc mua củ “tam thất nam” đem vào bệnh viện Phụ sản Trung ương lừa là thuốc chữa bệnh nan y như u nang buồng trứng hoặc ung thư để bán với giá cao, hưởng lợi tiền chênh lệch. Cả nhóm thống nhất và phân chia nhiệm vụ như sau: H, L, L có nhiệm vụ đi vào bệnh viện tìm gặp người đến khám các bệnh như u nang buồng trứng hoặc ung thư rồi làm quen, khi biết người bệnh không có hiểu biết về thuốc nam thì các đối tượng sẽ giới thiệu thuốc “tam thất nam” chữa được các bệnh đó, nếu người bệnh đồng ý mua thuốc thì sẽ bán thuốc với giá cao để chiếm đoạt, nếu ai tìm được khách trước sẽ tiếp cận, giới thiệu về thuốc, hai người còn lại sẽ đóng giả là bệnh nhân đang sử dụng thuốc tới và khen thuốc có hiệu quả tốt nhằm tạo niềm tin cho người bệnh, để tạo lòng tin của người mua, các đối tượng trên sẽ cho người bệnh gọi điện cho C (giả làm bác sỹ tên là Thành), làm việc tại Khoa đông y - Bệnh viện phụ sản trung ương tư vấn, khuyên mua thuốc. Số tiền thu được sẽ chia đều.

Sáng ngày 08/5/2017, L và L đi cùng nhau, còn H một mình bắt xe khách đến Hà Nội gặp nhau tại cổng bệnh viện phụ sản Trung ương. Trước khi đi, L mua sẵn 9 kg củ “tam thất nam” với giá 110.000 đồng/kg chia vào 2 túi nylon màu đen và mang đến bệnh viện. Sau khi gặp nhau tại cổng bệnh viện, cả 03 đối tượng đi vào trong, để 02 túi thuốc trên ghế đá phía sau bức tượng giáo sư Đinh Văn Thắng ở nhà G rồi cùng nhau đi tìm kiếm người bệnh nhằm lừa đảo bán củ “tam thất nam” dạng củ phơi khô với giá cao. Khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, H thấy chị Tường Thị Đ và chị Tường Thị M đang ngồi trên ghế đá tầng 1 tại sân chờ khám, trước cửa nhà A bệnh viện nên H nói dối tên là Vân rồi tiếp cận hỏi han, qua nói chuyện được biết chị M đang bị u xơ tử cung thì H nói bản thân đã bị bệnh ung thư 05 năm rồi và uống củ “tam thất nam” thì bệnh tình đỡ rất nhiều, thấy chị Đ quan tâm, H giới thiệu tác dụng loại củ “tam thất nam” chữa được bệnh ung thư, u và tiêu viêm. Lúc này, L và L đóng giả là bệnh nhân đi khám bệnh đến ngồi cạnh, giả vờ nói đã mua và sử dụng củ “tam thất nam” đồng thời khen thuốc có tác dụng tốt nhằm tác động tâm lý đến người mua thuốc. Để tạo lòng tin của chị Đ, nhóm đối tượng còn dùng thủ đoạn gian dối lừa chị Đ gọi điện cho 01 người tự xưng là bác sĩ Thành, làm việc tại Khoa Đông Y, bệnh viện phụ sản trung ương (thực chất là Hoàng Văn C đóng giả) để khuyên sử dụng thuốc. C và chị Đ nói chuyện với nhau, C không cần biết khách bệnh gì, giới thiệu ngay về thuốc và công dụng của “tam thất nam”. C hỏi chị Đ cần bảo nhiêu thuốc để C lấy cho, sau khi chị Đ bảo muốn lên tận phòng làm việc với bác sĩ thì C nói: “Bây giờ trên này đang đông bệnh nhân, lát anh lấy thuốc trong khoa được bao nhiêu thì bảo người quen lên lấy”. Sau đó, chị Đ đồng ý mua 02 kg với giá 1.000.000 đồng/kg và trả thêm 100.000 tiền công. Tiếp đó, H một mình đi lấy 02 túi “tam thất nam” ở vị trí cất giấu trước đó mang đến; L giả vờ đưa H 5.100.000 đồng để mua 5 kg củ “tam thất nam”, H liền bảo chị Đ mua nốt 05 kg còn lại vì thuốc quý hiếm, khó mua. Thấy vậy, chị Đ đồng ý mua nốt 05 kg còn lại. Khi chị Đ vừa đưa 5.100.000 đồng cho H và nhận thuốc thì tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an quận Hoàn Kiếm làm nhiệm vụ tại đó đã bắt quả tang và đưa các đối tượng có hành vi lừa đảo trên về trụ sở công an làm việc.

Tang vật thu giữ:

Thu giữ của chị Tường Thị Đ: 01 túi nilon màu đen bên trong có đựng thực vật để khô dạng củ màu trắng đục, trọng lượng khoảng 5 kg.

Thu giữ của Đặng Thị L: 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng, số sim 01629909218; 01 điện thoại Nokia 1280 màu đen đã qua sử dụng, số sim 0914802155; 01 túi nylon màu đen bên trong có đựng thực vật để khô dạng củ màu trắng đục, trọng lượng khoảng 4,5 kg.

Thu giữ của Nguyễn Thị L: 01 điện thoại di động Viettel V6216, số sim 01684197685.

Thu giữ của Lê Thị H: 10.200.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia X1, số sim 01258159786 và số 0963496580.

Theo biên bản làm việc với Hội đông y Việt Nam, số thực vật để khô dạng củ màu trắng đục thu giữ được là củ „tam thất nam‟, không có tác dụng chữa bệnh  ung  thư hay u  nang  buồng  trứng, giá trên  thị  trường  khoảng 110.000 đồng/kg.

Tại cơ quan điều tra các đối tượng H, L, L và C khai nhận cả 4 cùng bàn bạc thống nhất phân công nhiệm vụ đi lừa đảo bán thuốc nhằm chiếm đoạt tài sản như trên. Các đối tượng khai không hiểu biết về y lý, không có bằng cấp liên quan đến y học và không biết công dụng của củ tam thất nhưng đã dựng lên những tác dụng như chữa ung thư, u xơ và tiêu viêm, lừa gạt những người bệnh lấy tiền. Về điện thoại di động bị thu giữ, các đối tượng khai có dùng để liên lạc với nhau trong việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Chị Tường Thị Đ và chị Tường Thị M khai: Khoảng 5 giờ sáng ngày 08/05/2017, chị Đức đưa cháu là chị Tường Thị M đến bệnh viện phụ sản Trung Ương để khám vì chị Mến bị bệnh u xơ tử cung. Khoảng 14 giờ 15 phút cùng ngày, chị Đ và chị M đang ngồi tại ghế chờ khu A của bệnh viện để chờ bác sĩ hội chuẩn thì H chủ động tiếp cận ngồi gần và bắt chuyện với chị Đ. Khi biết chị M bị u xơ tử cung, H đã giới thiệu thuốc “tam thất nam” có thể chữa khỏi bệnh, không phải mổ. Ngay lúc đó, L và L ngồi cạnh, nói đã sử dụng thuốc và hiệu quả, sau đó H gọi điện cho một người đàn ông xưng là bác sỹ Thành, làm việc tại khoa Đông y - bệnh viện phụ sản Trung ương để chị Đ nói chuyện qua điện thoại và tư vấn mua thuốc. Chị Đ khai lúc đầu cũng không tin tưởng lời giới thiệu của H và L nhưng khi nói chuyện điện thoại và nghe người bác sĩ tên Thành nói là thuốc tốt nên đã tin tưởng và đồng ý mua 02 kg số thuốc trên. Khi H đi lấy thuốc quay lại, L giả vờ mua luôn 05 kg và đưa H 5.100.000 đồng; H nói thuốc này quý, khó mua lắm nên chị Đ đồng ý mua nốt 05 kg còn lại. Khi H vừa nhận 5.100.000 đồng của chị Đ thì bị bắt quả tang như nêu trên.

Về dân sự, công an quận Hoàn Kiếm đã trả lại 5.100.000 đồng cho chị Tường Thị Đ. Sau khi nhận lại tài sản, chị Đ không yêu cầu bồi thường dân sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 241/2017/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 139; Điều 33; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự: xử phạt,

+ Lê Thị H 25 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017);

+ Hoàng Văn C 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ đi thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2017 đến ngày 10/8/2017);

+ Đặng Thị L 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ đi thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017).

- Ngoài ra bản án còn xử phạt Nguyễn Thị L24 tháng tù, cho hưởng án treo, tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của các bị cáo, người bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/12/2017 bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L đều có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa các bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng với nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã quy kết. Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, xét đơn kháng cáo của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều, phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người làm chứng, kết luận giám định, tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do vậy có đủ cơ sở kết luận: sáng ngày 08/5/2017 tại Bệnh viện phụ sản Trung ương, Lê Thị H, Hoàng Văn Chính, Đặng Thị L cùng Nguyễn Thị L đã bàn bạc, phân công nhau đưa ra thông tin giả mạo về tác dụng của củ tam thất nam, lừa dối người bị hại chiếm đoạt tiền của chị Tường Thị Đ. Chính vì vậy Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong tổng số tiền 5.100.000đồng các bị cáo cầm của chị Tường Thị Đ thì các bị cáo đã bỏ ra 495.000đồng để mua củ “tam thất nam” nên thực tế các bị cáo chỉ chiếm đoạt số tiền 4.605.000đồng của chị Tường Thị Đ, cấp sơ thẩm không trừ đi khoản tiền các bị cáo chiếm đoạt là thiếu sót, gây bất lợi cho các bị cáo. Do vậy cấp phúc thẩm chỉ quy kết các bị cáo chiếm đoạt số tiền 4.605.000đồng của người bị hại.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L xin giảm nhẹ hình phạt thì Hội đồng xét xử nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo trong vụ án; vai trò của từng bị cáo cũng như xem xét về nhân thân của các bị cáo đều có 01 tiền sự đã được xóa về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải của các bị cáo; chồng bị cáo H tham gia nghĩa vụ quân sự; bị cáo C ra đầu thú; bố chồng bị cáo L được Nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng Nhất, mẹ chồng được tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng và người bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo song đã quyết định mức hình phạt 25 tháng tù đối với bị cáo Lê Thị H và 24 tháng tù đối với bị cáo Hoàng Văn C, Đặng Thị L cùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là còn có phần quá nghiêm khắc bởi lẽ số tiền các bị cáo chiếm đoạt không lớn, đã thu hồi ngay trả người bị hại; bản thân các bị cáo đều có hoàn cảnh gia đình khó khăn, éo le. Do vậy tại phiên tòa phúc thẩm mặc dù các bị cáo kháng cáo không đưa ra căn cứ giảm nhẹ nào mới song như phân tích trên thì cũng nên xem xét để chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L, giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, tạo điều kiện cho các bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở thành con người lương thiện. Các bị cáo phạm tội có tổ chức giản đơn, vai trò phạm tội ngang nhau nên mức hình phạt cần áp dụng bằng nhau mới là phù hợp.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

[4] Các bị cáo kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận nên không phải chịu án  phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự,

1. Sửa một phần bản án sơ thẩm:

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 245; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Lê Thị H 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Bị cáo Hoàng Văn C 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/5/2017 đến ngày 10/8/2017) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Bị cáo Đặng Thị L 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2017 đến ngày 10/8/2017) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về án phí: bị cáo Lê Thị H, Hoàng Văn C và Đặng Thị L không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của án sơ thẩm về hình phạt đối với Nguyễn Thị L, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

325
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 183/2018/HS-PT ngày 04/04/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:183/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về