Bản án 182/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 182/2020/HS-ST NGÀY 26/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 5 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 154/2020/HSST ngày 17 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2020/QĐXXST-HS ngày 08/5/2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Phạm Thành C, sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: 40/6C khu phố T, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Tấn S, sinh năm 1963 và con bà Phạm Thị Thúy N, sinh năm 1966; tiền sự, tiền án: Không có. Bị cáo bị bắt giam ngày 29/02/2020, có mặt.

-Người làm chứng: Chị Nguyễn Văn H, sinh năm 1957, vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Phạm Thành C sử dụng ma túy, ngày 26/02/2020 Công mua 1.500.000 đồng ma túy từ người tên Thuận (không rõ nhân thân) tại khu vực Big C Dĩ An, C mang ma túy về nhà sử dụng 01 phần, phần còn lại cất giấu trong nhà. Khoảng 22 giờ ngày 29/02/2020, Công an phường Tân Đông Hiệp kiểm tra hành chính nhà của C tại địa chỉ 40/6C khu phố T, phường H, Thành phố K, tỉnh Bình Dương, lúc này C lấy ra ma túy đang cất giấu ra giao nộp nên bị lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú. Vật chứng thu giữ: 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm nỏ thủy tinh, chai nhựa, ống hút.

Kết luận giám định số 98/MT-PC09 ngày 06/3/2020 của Ph ng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu chất màu trắng có trong 01 gói nylon hàn kín, thu giữ của Nguyễn Phạm Thành C gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,3391 gam loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 190/CT – VKS ngày 17 tháng 4 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Phạm Thành C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo C từ 15 đến 18 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định, bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo C nói lời sau cùng: Biết hành vi của mình làm là vi phạm pháp luật, xin được xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Nguyễn Phạm Thành C: Biên bản tiếp nhận người phạm tội đầu thú ngày 29/02/2020, lời khai người chứng kiến, biên bản lấy lời khai bị cáo C thể hiện bị cáo sử dụng ma túy, ngày 29/02/2020 bị cáo cất giữ 1,3391 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị bắt giữ. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính. Như vậy, hành vi trên của bị cáo C đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 190/CT-VKS ngày 17/4/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về nhân thân: Bị cáo C có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án tiền sự.

[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo C phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 05 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh ph ng ngừa chung.

[3] Đối với người tên Thuận không rõ nhân thân bán ma túy cho C, Công an Thành phố Dĩ An tách điều tra xác minh xử lý sau.

[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy, dụng cụ sử dụng ma túy, vật chứng liên quan, sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt bị cáo C phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo C phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phạm Thành C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Phạm Thành C 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/02/2020.

2. Các biện pháp tư pháp 2.1 Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư niêm phong ghi số vụ 98/MT-PC09 bên trong có chứa ma túy khối lượng còn lại sau giám định là 1,2223 gam loại Methamphetamine; 01 chai nhựa, nỏ thủy tinh và ống hút nhựa.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/4/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

2. 2 Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Nguyễn Phạm Thành C phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2020/HS-ST ngày 26/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:182/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về