Bản án 182/2020/HS-ST ngày 19/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 182/2020/HS-ST NGÀY 19/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 178/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2020/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Thị Bé H; sinh năm 1992 tại Q.

Nơi đăng ký thường trú: Tổ 4, khu phố P, phường M, thị xã P, tỉnh B.

Nghề nghiệp: Điều dưỡng; trình độ học vấn: 12/12; trình độ chính trị: Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 02- QĐ/UBKTHU ngày 19/8/2020 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy Long Thành); dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Hữu Đ, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1959; bị cáo là con thứ 05 trong gia đình có 05 anh chị em. Bị cáo có chồng tên Võ Duy T, sinh năm 1985 và 01 con sinh ngày 20/8/2019.

Tiền án: Không. Tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại.

- Bị hại: Ông Nguyễn Chính T, sinh năm: 1960. Địa chỉ: Khu phố M, thị trấn H, huyện N, tỉnh Đ.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Võ Duy T, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Tổ 4, khu phố P1, phường M1, thị xã P1, tỉnh B1. (Bị cáo H, anh T có mặt, ông T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thị Bé H là nhân viên điều dưỡng làm việc tại Trung tâm y tế huyện Long Thành thuộc khu Phước Hải, thị trấn Long Thành, huyện Long Thành. Lúc 09 giờ 30 phút ngày 21/4/2020, ông Nguyễn Chính T đến Trung tâm y tế để tiêm ngừa. Sau khi tiêm xong, ông T ngồi nghỉ tại hàng ghế chờ phía trước phòng tiêm, sau đó ông T đi về bỏ quên lại trên ghế 01 chiếc ví da bên trong có 01 thẻ ATM số 0401001467439 của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) kèm theo 01 phong bì chứa mã pin của thẻ, số tiền 19.000.000 đồng và một số giấy tờ cá nhân mang tên Nguyễn Chính T. Lúc này có 01 người phụ nữ (không rõ lai lịch) nhặt được chiếc ví mang lại đưa cho H để H trả cho người bị mất. H nhận ví bỏ vào giỏ xách của mình mà không báo cáo lãnh đạo Trung Tâm. Đến 12 giờ cùng ngày, H kiểm tra trong ví thấy có 01 thẻ ATM kèm mã pin nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền trong thẻ. H điều khiển xe mô tô biển số 72E1-604.56 đến trụ ATM đặt tại phòng giao dịch ngân hàng Vietcombank ở ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành để rút tiền. H nhập mã pin và thực hiện 05 lần giao dịch rút tiền, trong đó 04 lần rút số tiền 5.000.000 đồng và 01 lần rút số tiền 3.650.000 đồng, tổng cộng 23.650.000 đồng bỏ vào túi của H rồi điều khiển xe đi về nhà tại phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Đến 20 giờ cùng ngày, H lấy ví ra tiếp tục kiểm tra bên trong phát hiện có 19.000.000 đồng trong ngăn có khóa kéo, H lấy toàn bộ tiền trong ví và tiền rút được cất giấu trong tủ của gia đình. Đến 09 giờ ngày 24/4/2020, ông T đến ngân hàng Vietcombank để làm thủ tục chuyển tiền thì phát hiện số tiền trong tài khoản bị mất nên đến Công an huyện Long Thành trình báo.

Vật chứng: Số tiền 42.650.000 đồng gồm 23.650.000 đồng H lén lút rút từ thẻ ATM và 19.000.000 đồng có sẵn trong ví cùng giấy tờ cá nhân mang tên Nguyễn Chính Tần, Cơ quan điều tra đã thu hồi trả lại cho bị hại và bị hại không có yêu cầu gì khác. Riêng thẻ ATM, H đã làm mất nên không thu hồi được. Đối với số tiền 19.000.000 đồng có sẵn trong ví, Hiền chiếm giữ của ông T nhưng sau khi bị phát hiện, H đã tự nguyện trả lại cho ông T nên Cơ quan điều tra không khởi tố H về tội Chiếm giữ tài sản trái phép đối với số tiền trên.

- Đối với xe mô tô biển số 72E1-604.56 do anh Võ Duy T đứng tên chủ sở hữu, H sử dụng phạm tội anh T không biết nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T.

Trước Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Trần Thị Bé H đã khai nhận hành vi phạm tội nêu trên phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ, tài liệu thu thập tại hồ sơ vụ án.

Tại bản cáo trạng số 189/CT-VKSLT ngày 18/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Trần Thị Bé H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Thị Bé H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên đề nghị xem xét áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo Trần Thị Bé H mức án từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thị Bé H khai nhận: Sáng ngày 21/4/2020, sau khi giữ ví da của ông Nguyễn Chính T do người khác nhặt được đưa H tìm người trả giúp tại Trung tâm y tế huyện Long Thành nhưng bị cáo không báo cáo lại sự việc nơi làm việc. Lúc 15 giờ 10 phút cùng ngày, tại trụ ATM của Phòng giao dịch Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam thuộc ấp 2, xã Phước Bình, huyện Long Thành, H có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 23.650.000 đồng bằng việc rút từ thẻ ATM số 0401001467439 có trong ví da của ông Nguyễn Chính T do ông để quên. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Trần Thị Bé H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo H là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, tác động xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử có xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên xem xét áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng nên áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo. Hiện bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi cũng nên tạo điều kiện cho việc chăm sóc con.

[3] Về trách nhiệm dân sự, vật chứng vụ án: Tài sản bị chiếm đoạt Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành đã trả lại cho bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về vấn đề khác: Đối với xe mô tô biển kiểm soát 72E1-604.56 do anh T là chủ sở hữu không biết việc bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội nên đã trả lại cho anh T.

Đối với số tiền 19.000.000 đồng có sẵn trong ví, bị cáo H chiếm giữ của ông T nhưng sau khi bị phát hiện, H đã tự nguyện trả lại cho ông T nên Cơ quan điều tra không khởi tố H về tội Chiếm giữ tài sản trái phép đối với số tiền trên.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Long Thành, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp, đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Trần Thị Bé H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Bé H 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án ngày 19/9/2020.

Giao bị cáo Trần Thị Bé H cho Ủy ban nhân dân phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Không xét.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Thị Bé H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

192
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2020/HS-ST ngày 19/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:182/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về