Bản án 182/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 182/2020/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Vị Thanh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 95/2020/TLST – HNGĐ, ngày 12 tháng 5 năm 2020, về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST - HNGĐ, ngày 22 tháng 6 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số: 57/2020/QĐST – HNGĐ, ngày 13 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị K.

Địa chỉ: Ấp Phước Hoà, xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Triệu Văn U.

Địa chỉ: Ấp Thạnh Xuân, xã Hoả Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện gửi Tòa án và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lương Thị K trình bày: Chị và anh Triệu Văn U chung sống với nhau vào năm 2012, có đi đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Phước Thạnh, thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang. Thời gian đầu sau khi kết hôn chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2017 phát sinh mâu thuẫn, tính tình không còn hoà hợp, tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể tiếp tục sống chung được. Anh Triệu Văn U bỏ về nhà cha mẹ ruột ở ấp Thạnh Xuân, xã Hoả Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, vợ chồng sống ly thân từ năm 2017 đến nay không còn liên lạc được.

Về con chung: Có 01 con chung tên Triệu Văn T (giới tính nam), sinh ngày 09/11/2012, hiện con chung đang sống chung với chị.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay chị Lương Thị K yêu cầu Toà án giải quyết như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị K yêu cầu được ly hôn với anh Triệu Văn U.

Về con chung: Chị Lương Thị K yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Triệu Văn U cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà chị Lương Thị K giữ nguyên yêu cầu như trước đây.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn anh Triệu Văn U đã được tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ nhưng đều vắng mặt, nên chưa trình bà y ý kiến và chưa đưa ra yêu cầu của mình.

Kèm theo đơn khởi kiện, chị Lương Thị K đã nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ là Giấy chứng nhận kết hôn giữa chị và anh Triệu Văn U (bản chính); Giấy khai sinh của con chung (bản sao); anh Triệu Văn U không có nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị K và anh Triệu Văn U chung sống với nhau vào năm 2012 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên quan hệ hôn nhân của anh chị được pháp luật công nhận là hợp pháp. Thời gian chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, không phù hợp quan điểm trong cuộc sống, khi có mâu thuẫn anh chị đã không tạo điều kiện hàn gắn mà để mâu thuẫn kéo dài ngày càng trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, dẫn đến sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Toà án cũng tạo điều kiện hoà giải nhưng anh Triệu Văn U không đến Toà án nên không hoà giải được. Tại phiên toà chị Lương Thị K vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân của anh chị đã thật sự trầm trọng, cuộc sống chung nếu kéo dài sẽ không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận cho chị Lương Thị K được ly hôn với anh Triệu Văn U.

[2] Về con chung: Có 01 con chung tên Triệu Văn T (giới tính nam), sinh ngày 09/11/2012, hiện con chung đang sống chung với chị Lương Thị K. Chị Lương Thị K yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng, anh Triệu Văn U không có ý kiến. Xét thấy con chung của anh chị hiện nay chưa thành niên nhưng đã đủ 07 tuổi, đã sống chung với mẹ là chị Lương Thị K từ khi cha mẹ ly thân đến nay, khi vợ chồng ly thân anh Triệu Văn U cũng để con cho chị Lương Thị K nuôi dưỡng, không có yêu cầu được nuôi con chung, hiện nay nguyện vọng của con chung cũng muốn sống chung với mẹ là chị Lương Thị K khi cha mẹ ly hôn. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quyết định giao con chung cho chị Lương Thị K được quyền nuôi dưỡng. Anh Triệu Văn U chưa phải cấp dưỡng nuôi con do chị Lương Thị K chưa có yêu cầu.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Lương Thị K khai không có, anh Triệu Văn U không có ý kiến, nên Hội đồng xét xử chưa xem xét. Nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết thành một vụ án khác theo quy định.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án buộc chị Lương Thị K phải chịu.

[5] Đối với anh Triệu Văn U dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập đến dự phiên tòa sơ thẩm lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các điều 28, 35, 39, 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Các điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Lương Thị K được ly hôn với anh Triệu Văn U.

2. Về con chung: Chị Lương Thị K được quyền trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Triệu Văn T (giới tính nam), sinh ngày 09/11/2012. Anh Triệu Văn U chưa phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con do chị Lương Thị K chưa có yêu cầu. Anh Triệu Văn U có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không sống chung với mình mà không ai được quyền cản trở.

3. Án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn: Buộc chị Lương Thị K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng. Chuyển 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí chị Lương Thị K đã nộp theo biên lai thu số 0003079 ngày 12/5/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang thành án phí.

4. Chị Lương Thị K được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Triệu Văn U vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2020/HNGĐ-ST ngày 13/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:182/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về