Bản án 182/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 182/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 382/2019/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 167/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 8 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 152/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; chỗ ở hiện nay: Thôn Mỹ Tranh, xã Nam Sơn, huyện An Dương, thành phố H; có mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Khắc D, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07 tháng 5 năm 2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị kết hôn với anh Phạm Khắc D năm 2006 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H vào ngày 06 tháng 5 năm 2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình và do anh Phạm Khắc D chơi cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Phạm Khắc D đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả. Chị đã thuê nhà ở riêng tại thôn Mỹ Tranh, xã Nam Sơn, huyện An Dương, thành phố H từ tháng 12 năm 2018 và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay chị Nguyễn Thị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Phạm Khắc D không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Khắc D.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày vợ chồng có hai con chung tên Phạm Thị K, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007 và Phạm K, sinh ngày 26 tháng 4 năm 2010. Hiện nay hai con chung đang ở cùng với anh Phạm Khắc D tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Trường hợp chị và anh Phạm Khắc D ly hôn, chị Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao hai con chung cho anh Phạm Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh Phạm Khắc D tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T trình bày vợ chồng có tài sản chung gồm 01 nhà xây dựng trên đất của bố mẹ đẻ anh Phạm Khắc D tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Trường hợp chị và anh Phạm Khắc D ly hôn, chị Nguyễn Thị T đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận phân chia tài sản, nếu không tự thỏa thuận phân chia được thì sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản sau.

Tại bản tự khai ngày 13 tháng 8 năm 2019 bị đơn là anh Phạm Khắc D trình bày: Anh kết hôn với chị Nguyễn Thị T năm 2009 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Quá trình vợ chồng chung sống không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 12 năm 2018. Anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị T.

Về con chung: Anh Phạm Khắc D trình bày vợ chồng có hai con chung tên Phạm Thị K, sinh năm 2007 và Phạm K, sinh năm 2010. Hiện nay hai con chung đang do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Trường hợp vợ chồng ly hôn, anh Phạm Khắc D yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi hai con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để vợ chồng tự thỏa thuận.

Về tài sản chung: Anh Phạm Khắc D trình bày vợ chồng có nhà xây dựng trên đất của bố mẹ anh, để vợ chồng tự thỏa thuận.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố H phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn là anh Phạm Khắc D chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Phạm Khắc D. Về con chung: Giao 02 con chung tên Phạm Thị K, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007 và Phạm K, sinh ngày 26 tháng 4 năm 2010 cho anh Phạm Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D thống nhất để vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D thống nhất vợ chồng có tài sản chung nhưng để vợ chồng tự thỏa thuận nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn là anh Phạm Khắc D đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Phạm Khắc D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H vào ngày 06 tháng 5 năm 2009 là hôn nhân hợp pháp. Quá trình vợ chồng chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D chung sống hoà thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình và do anh Phạm Khắc D thường xuyên chơi cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Nay chị Nguyễn Thị T khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Phạm Khắc D không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Khắc D. Anh Phạm Khắc D thừa nhận trong quá trình chung sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên xảy ra cãi nhau nhưng không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị T. Tài liệu xác minh thể hiện vợ chồng chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D chung sống hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong sinh hoạt gia đình và do anh Phạm Khắc D thường xuyên chơi cờ bạc nên vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi nhau. Vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 12 năm 2018 đến nay. Như vậy thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn. Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ hai để anh Phạm Khắc D có mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa nhưng anh Phạm Khắc D vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó việc anh Phạm Khắc D không đồng ý ly hôn chỉ nhằm mục đích gây khó khăn cho chị Nguyễn Thị T. Vì vậy căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T về việc xin ly hôn anh Phạm Khắc D, cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Phạm Khắc D.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D có 02 con chung tên Phạm Thị K, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007 và Phạm K, sinh ngày 26 tháng 4 năm 2010. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết giao hai con chung cho anh Phạm Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Khắc D yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được trực tiếp nuôi hai con chung. Tài liệu xác minh thể hiện 02 con chung đang ở cùng với anh Phạm Khắc D tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H, việc nuôi hai con chung của anh Phạm Khắc D đã ổn định. Vì vậy căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D, giao 02 con chung tên Phạm Thị K, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007 và Phạm K, sinh ngày 26 tháng 4 năm 2010 cho anh Phạm Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D thống nhất để vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D thống nhất vợ chồng có tài sản chung là một nhà xây dựng trên đất của bố mẹ đẻ anh Phạm Khắc D tại thôn 6, xã K, huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Khi ly hôn chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D đề nghị để vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết về tài sản chung trong vụ án này, khi các đương sự có yêu cầu sẽ giải quyết việc chia tài sản bằng vụ án khác.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Phạm Khắc D.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Phạm Thị K, sinh ngày 31 tháng 5 năm 2007 và Phạm K, sinh ngày 26 tháng 4 năm 2010 cho anh Phạm Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Phạm Khắc D thống nhất để vợ chồng tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002564 ngày 21 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên, thành phố H. Chị Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 182/2019/HNGĐ-ST ngày 27/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:182/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Trì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về