TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI DƯƠNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 182/2018/HS-ST NGÀY 21/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 21 tháng 9 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 147/2018/TLST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2018/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức Khương D, sinh năm 1989 tại Hải Dương. Trú tại: Thôn VT, xã TV, huyện TH, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức L và bà Nguyễn Thị M; bị cáo chưa có vợ con; gia đình có 2 anh em bị cáo là con thứ nhất; tiền sự: Không; tiền án: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 172 ngày 25/10/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành xong hình phạt ngày 27/7/2013, nộp án phí ngày 03/4/2012); tại bản án hình sự sơ thẩm số 69 ngày 23/12/2015, Tòa án nhân dân huyện TH, tỉnh Hải Dương xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (thực hiện hành vi phạm tội ngày 30/6/2015, chấp hành xong hình phạt ngày 17/02/2017); nhân thân: Ngày 26/5/2015 bị Trưởng công an xã Cẩm Chế, huyện TH, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đ về hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/5/2018 đến ngày 25/5/2018 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Kim Chi-Công an Hải Dương đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Những người tham gia tố tụng khác:
* Người làm chứng:
+ Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1970; trú tại: 05/05/61 TP, phường TP, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (vắng mặt);
+ Anh Trần Anh T, sinh năm 1974; trú tại: Khu 11 phường TB, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Tại bản cáo trạng số 160/CT-VKSTPHD ngày 07/8/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Đức Khương D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự với căn cứ:
Khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 23/5/2018, tại khu vực đầu ngõ 64 AN, phường BH, thành phố Hải Dương. Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy công an thành phố Hải Dương phát hiện bắt quả tang Nguyễn Đức Khương D có hành vi cất giấu trái phép một gói giấy màu trắng có dòng kẻ kích thước khoảng 0,5x1cm bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng D tự khai là Heroine cất giấu để sử dụng cho bản thân. Quá trình bắt, thu giữ gói ma túy của D có sự chứng kiến của anh Nguyễn Xuân H ở 05/05/61 TP, phường TP, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương và anh Trần Anh T ở Khu 11 phường TB, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Tại cơ quan điều tra Nguyễn Đức Khương D khai nhận: Do bản thân có sử dụng ma túy nên vào sáng ngày 23/5/2018, D đi xe buýt từ nhà lên khu vực gần ga tầu thành phố Hải Dương thì xuống xe. Tại một ngõ gần ga tầu (D không nhớ cụ thể), D đã gặp và mua của một người đàn ông không quen biết một gói Heroine với số tiền 100.000đ rồi cầm trên tay đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực đầu ngõ 64 AN, phường BH thì bị phát hiện bắt giữ.
Tại kết luận giám định số 362/KLGĐ-PC54 ngày 24/5/2018 Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hải Dương kết luận: Chất bột (dạng cục) mầu trắng ghi thu của Nguyễn Đức Khương D, gửi đến giám định có khối lượng là 0,128 gam là loại Heroine. Hoàn trả 0,055 gam Heroine.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức Khương D thừa nhận vào sáng 23/5/2018 bị cơ quan điều tra công an thành phố Hải Dương bắt giữ do đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Heroine để sử dụng cho bản thân. Bị cáo nhất trí với kết luận giám định; thể hiện thái độ ăn năn hối cải; công nhận Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Dương đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng; bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Tranh luận tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Khương D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt chính: Áp dụng điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Khương D từ 05 năm 03 tháng đến 05 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/5/2018.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình s; điểm a, c Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ mẫu vật hoàn lại sau giám định.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm hình sự theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về chứng cứ xác định bị cáo Nguyễn Đức Khương D có tội và áp dụng pháp luật:
Bị cáo Nguyễn Đức Khương D thừa nhận vào khoảng 08 giờ 00 phút, ngày 23/5/2018, tại khu vực đầu ngõ 64 AN, phường BH, thành phố Hải Dương. Đã cố ý thực hiện hành vi cất giấu trái phép một gói Heroine với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan công an phát hiện bắt quả tang thu giữ vật chứng. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản niêm phong vật chứng bị tạm giữ. Các tài liệu, chứng cứ nêu trên phù hợp với các chứng cứ khác như: Bản tự khai của bị cáo, biên bản lấy lời khai bị cáo, biên bản hỏi cung bị cáo, biên bản lấy lời khai của người làm chứng đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; thực hiện hành vi cất giấu trái phép chất ma túy với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi tàng trữ trái phép ma túy là loại Heroine mặc dù khối lượng 0,128 gam nhưng bị cáo Nguyễn Đức Khương D thực hiện hành vi phạm tội mới do cố ý trong khi đã tái phạm chưa được xóa án tích nên bị cáo bị Viện kiểm sát truy tố và bị đưa ra xét xử về tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o Khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự với tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm” là đủ căn cứ, đúng người thực hiện hành vi phạm tội và đúng pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mìnhnên áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn thì mới có đủ tác dụng giáo dục bị cáo.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Đối với vật chứng do cơ quan giám định hoàn lại, xét thấy Heroine là chất Nhà nước cấm lưu hành, vỏ giấy gói không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.
Về án phí: Bị cáo có tội nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. [2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về các vấn đề khác: Hành vi bán ma túy cho D của đối tượng nam giới không xác định được nên cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm của người này là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm o Khoản 2 Điều 249; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm c Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c Khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức Khương D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức Khương D 05 (năm) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 23/5/2018.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định được đựng trong phong bì niêm phong số 362/KLGĐ-PC54.
(Vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/9/2018 giữa cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Hải Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hải Dương).
4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức Khương D phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Đức Khương D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 182/2018/HS-ST ngày 21/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 182/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hải Dương - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về