Bản án 18/2021/HSST ngày 22/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 18/2021/HSST NGÀY 22/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/02/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 127/2020/TLST-HS ngày 09/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2020/HSST-QĐ ngày 24/12/2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/HSST-QĐ ngày 22/01/2021, đối với bị cáo:

Lê Đình T, sinh năm 1995 tại Bà Rịa – Vũng Tàu; Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện X, tỉnh B; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 8/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật; Con ông Lê Hải Anh, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Nhàn, sinh năm 1962; Bị cáo là con thứ 6 trong gia đình có 06 người con; Vợ bà Nguyễn Thị Diệu Hiền, sinh năm 1992; Bị cáo có 01 con, sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/8/2020 (Bị cáo có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1993. Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện X, tỉnh B (Vắng mặt).

2. Ông Trần Quốc Đ, sinh năm 1997. Địa chỉ: Ấp P, xã H, huyện X, tỉnh B (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 19/8/2020, Lê Đình T hẹn trước với Trần Quốc Đ đến nhà Hồ Đắc Phương ở ấp Phú Vinh, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu để lấy tiền nợ. Đến khoảng 10 giờ, T đến nhà Đ ở ấp Phú Tâm, xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc. Khi đến nhà Đ được 10 phút, T điều khiển xe mô tô Mio màu đỏ đen biển số 60N4-4192 đến chợ xã Hòa Hiệp mua thức ăn. Tại đây, T gặp Lộc (Không rõ lai lịch, địa chỉ), T hỏi mua ma túy đá và cần sa mỗi loại 400.000 đồng, Lộc đồng ý. T trả tiền cho Lộc 800.000 đồng, Lộc đưa cho T 01 gói nylon bên trong chứa ma túy đá và 02 cuộn giấy báo có chứa cành, lá cây cần sa. Sau khi nhận ma túy, T cất giấu 02 cuộn giấy báo chứa cần sa vào cốp xe và bỏ gói ma túy đá vào gói thuốc JET cất giấu vào túi quần, rồi quay về nhà Đ. Tại đây, T rủ Đ cùng sử dụng ma túy, Đ đồng ý, T dùng kéo mang theo, cắt gói ma túy mới mua đổ 1/3 vào nỏ thủy tinh, số ma túy còn lại hàn kín và bỏ vào gói thuốc Jet cất giấu vào túi quần bên phải. Sau khi sử dụng ma túy xong. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, T nhận được diện thoại của Nguyễn Văn H (Tên thường gọi là Bát Giới) hỏi 300.000 đồng cần sa về để sử dụng. T đồng ý và dự định, đi vào nhà Phương lấy tiền, sau đó tiện đường qua bán cần sa cho H nên thỏa thuận địa điểm giao dịch mua bán tại nhà của H ở ấp Phú Vinh, xã Hòa Hiệp. T rủ Đ cùng đi đến nhà Phương lấy tiền như đã hẹn với Đ trước đó. Trên đường đi, khi đến khu vực đường thuộc ấp Phú Vinh, xã Hòa Hiệp bị Công an xã Hòa Hiệp tuần tra thấy nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và yêu cầu 02 thanh niên gồm Lê Đình T và Trần Quốc Đ ai cất giấu ma túy mang giao nộp. T lấy 01 gói ma túy đá cất trong gói thuốc Jet giấu trong túi quần bên phải và 02 cuộn giấy báo chứa cành, lá thực vật là cần sa ra giao nộp.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Đình T khai nhận hành vi phạm tội của mình. T khai nhận số ma túy còn lại thu giữ trong gói thuốc Jet là của bị cáo, mục đích cất giấu để sử dụng và bán lại cho các con nghiện; việc mua và tàng trữ ma túy, cây cần sa chỉ một mình T tham gia, Trần Quốc Đ không biết.

Tại Kết luận giám định số 404/GĐMT-PC09(Đ2) ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu kết luận như sau:

- Mẫu chất kết tinh, không màu - trong suốt chứa trong 01 (Một) gói ny lon, được niêm phong trong một phong bì màu trắng (Số thứ tự 01) gửi đến giám định có khối lượng 0,3394 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine.

- Mẫu cành, lá cây thực vật chứng trong 02 (hai) gói giấy báo, được niêm phong trong phong bì màu vàng (Số thứ tự 02) gửi đến giám định có khối lượng 69,30 gam là cần sa.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số: 60N4-4192, nhãn hiệu: Yamaha, loại: Mio, số máy: 021007, số khung: 21007, màu sơn: Đỏ đen (Kèm giấy đăng ký xe số 0171953 mang tên Nguyễn Đỗ Thụy Vy); 01 ĐTDĐ Samsung Galaxy A30 màu đen; 01 kéo bằng kim loại; 01 nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) phong bì màu trắng, được niêm phong có hình dấu của Công an xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR-VT (Số thứ tự 01); 01 (một) phong bì màu cam, được niêm phong có hình dầu của Công an xã Hòa Hiệp, huyện Xuyên Mộc, tỉnh BR-VT (Số thứ tự 02) là mẫu vật còn lại sau giám định theo Kết luận giám định số 404/GPMT- PC09(22) ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện đang tạm giữ chuyển Chi cục thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc chờ xử lý.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 07/12/2020, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố Lê Đình T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, bị cáo Lê Đình T khai nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc truy tố.

Tại phiên tòa, Đ diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc phát biểu: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lê Đình T về tội danh như nội dung bản Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Đình T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

Bị cáo Lê Đình T có lời nói sau cùng như sau: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng:

- Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, các hành vi và quyết định tố tụng được thực hiện và ban hành theo đúng trình tự, thủ tục tố tụng và không bị khiếu nại, tố cáo. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án này đều hợp pháp.

- Các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đều được Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; được bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cung cấp theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định nên đều hợp pháp [2]. Về tội danh và điều luật áp dụng:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn T phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra; Phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 19/8/2020, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Lê Đình T đã thực hiện việc mua bán trái phép chất ma tuý, cụ thể: Vào ngày 19/8/2020, T mua 01 gói ma tuý tổng hợp của 01 đối tượng tên Lộc (Không rõ họ tên và địa chỉ) với giá 800.000 đồng về để bán lại cho các con nghiện khác, trên đường đi bán thì bị bắt quả tang đang mang theo 0,3394 gam là chất ma túy, loại Methamphetamine và 69,30 gam là cần sa.

Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Đình T đã có đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự đúng như cáo trạng và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát đã nêu tại phiên tòa.

[3]. Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy và gây mất trật tự, an T xã hội tại địa phương. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên nhận thức rõ tác hại to lớn của ma túy đối với sức khỏe con người và những ảnh hưởng tiêu cực mà ma túy gây ra cho mỗi gia đình, cộng đồng và xã hội. Bị cáo biết rõ Nhà nước nghiêm cấm tất cả các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy nhưng vì hám lợi bị cáo vẫn bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là một trong những nguyên nhân làm gia tăng số lượng người nghiện ma túy trên địa bàn và làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống ma túy của địa phương. Do vậy, cần thiết phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới đủ sức cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1]. Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4.2]. Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5]. Đối với Trần Quốc Đ không biết T tàng trữ ma túy và bán ma túy, chỉ được T cho sử dụng; Nguyễn Văn H hẹn mua ma túy về để sử dụng nhưng chờ T lâu nên bỏ về nên không phạm tội. Đối tượng bán ma túy cho T không rõ lai lịch nên đề nghị Cơ quan điều tra xác minh xem xét xử lý sau.

[6]. Về xử lý vật chứng:

- 01 (Một) xe mô tô biển số: 60N4-4192, nhãn hiệu: Yamaha, loại: Mio, số máy: 021007, số khung: 21007, màu sơn: Đỏ đen và 01 (Một) Giấy đăng ký xe số 0171953 mang tên Nguyễn Đỗ Thụy Vy. Bà Vy khai đã bán cho người khác (Không rõ họ tên, địa chỉ) và bị cáo mua lại của một người không rõ họ tên, địa chỉ. Xét thấy, đây là tài sản của bị cáo và bị cáo dùng làm phương tiện để thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 (Một) ĐTDĐ Samsung Galaxy A30 màu đen thu giữ của Lê Đình T là phương tiện bị cáo dùng để thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- 01 (Một) kéo bằng kim loại, 01 nỏ bằng thủy tinh là những vật dụng bị cáo dùng vào việc mua bán và sử dụng trái phép chất ma túy là những vật không có giá trị sử dụng, nên tịch thu tiêu hủy.

- 01 (Một) phong bì màu trắng, được niêm phong vụ số: 404/1 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và 01 (Một) phong bì màu cam, được niêm phong vụ số: 404/2 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoàn trả, chứa mẫu vật còn lại là mẫu ma túy còn lại sau khi giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Đình T 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày 19/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên xử:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (Một) xe mô tô biển số: 60N4-4192, nhãn hiệu: Yamaha, loại: Mio, số máy: 021007, số khung: 21007, màu sơn: Đỏ đen và 01 (Một) Giấy đăng ký xe số 0171953 mang tên Nguyễn Đỗ Thụy Vy.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (Một) điện thoại di động Samsung Galaxy A30 màu đen.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) kéo bằng kim loại; 01 (Một) nỏ bằng thủy tinh; 01 (Một) phong bì màu trắng, được niêm phong vụ số: 404/1 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoàn trả, chứa mẫu vật còn lại sau giám định và 01 (Một) phong bì màu cam, được niêm phong vụ số: 404/2 ngày 27/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hoàn trả, chứa mẫu vật còn lại sau giám định.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng số 28/BB ngày 09/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo Lê Đình T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 ngày, tính từ ngày Bản án được giao hoặc niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HSST ngày 22/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về