Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 03 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 269/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 05/2021/HSST-QĐ ngày 02/02/2021 đối với các bị cáo:

1. Trần Văn Q, sinh năm 1999 tại Hà Tĩnh; thường trú: thôn L, xã K, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hoá: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Tài, sinh năm 1970 (đã chết) và bà Bùi Thị Huyền, sinh năm 1973; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/9/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Quang S, sinh năm 1997 tại Hà Tĩnh; thường trú: khu phố 3, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hoá: Lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân N, sinh năm 1954 và bà Lê Thị H1, sinh năm 1960; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 16/9/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị N, sinh năm 1992; thường trú: Thôn L, xã K, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; tạm trú: Nhà trọ A thuộc khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương; có đơn xin vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn H; có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn Q và Nguyễn Quang S là bạn bè và đều là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy thường sử dụng là ma túy đá (Methamphetamine).

Khong 15 giờ ngày 15/9/2020, S đang đi thì gặp B (không rõ nhân thân) là người đã bán ma túy cho S trước đây, S hỏi mua ma túy nhưng không đủ tiền nên B không đồng ý bán thiếu. S đưa trước cho B 100.000 đồng, B hẹn S khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày đến hẻm HN01/1 thuộc khu phố 1, phường H, thị xã T đưa thêm 200.000 đồng để lấy ma túy. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Q điện thoại hỏi S có ma túy đá không, S nói nếu muốn sử dụng thì đi mua. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô biển số 38P1-276.75 đến nhà đón S. S và Q thỏa thuận S góp 200.000 đồng, Q góp 100.000 đồng để mua ma túy nhưng Q không có tiền nên mượn S 100.000 đồng. Q chở S đến bãi đất trống trên đường HN01/1 thuộc khu phố 1, phường H thì S xuống đi bộ khoảng 10m nhìn thấy sát lề đường có 01 vỏ bao thuốc lá hiệu Jet, S nhặt lên mở ra xem bên trong có 01 gói nylon chứa chất tinh thể màu trắng. S lấy gói nylon rồi bỏ 200.000 đồng vào vỏ bao thuốc lá và để lại vị trí cũ. Khi cả hai đi được một đoạn khoảng 100m thì lực lượng tuần tra Công an phường H phát hiện nên yêu cầu dừng xe kiểm tra phát hiện S đang giữ 01 gói nylon hàn kín chứa chất tinh thể màu trắng. Lực lượng tuần tra đưa Q và S về Công an phường H lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nylon hàn kín bên trong chứa chất tinh thể màu trắng; 01 xe mô tô hiệu Nozza màu trắng biển số 38P1-276.75; 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen và chứng minh nhân dân mang tên Trần Văn Q.

Công an phường phường H lập hồ sơ ban đầu và bàn giao vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Bản kết luận giám định số 587/MT-PC09 ngày 23/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận chất tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nylon hàn kín thu giữ của Nguyễn Q S và Trần Văn Q là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,1776 gam.

Xe mô tô hiệu Nozza màu trắng biển số 38P1-276.75 do bà Trần Thị N đứng tên chủ sở hữu. Bà N là chị dâu họ của Trần Văn Q. Ngày 15/9/2020, bà N cho Q mượn xe, việc Q sử dụng xe để làm phương tiện đi mua ma túy bà N không biết. Ngày 10/12/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T đã ban hành Quyết định xử lý vật chứng số 08 trả xe cho bà N.

Bản Cáo trạng số 03/CT-VKS.TU ngày 22/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố hai bị cáo Trần Văn Q và Nguyễn Quang S về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử như sau:

- Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; xử phạt bị cáo Trần Văn Q từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy 0,1141 gam ma túy còn lại sau giám định; tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen; trả lại cho bị cáo Trần Văn Q chứng minh nhân dân.

Tại phiên tòa, hai bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận. Trong phần trình bày lời nói sau cùng, hai bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thu tuc tố tung: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng vắng mặt nhưng đã có đơn xin vắng mặt. Quá trình điều tra, lời khai của họ không mâu thuẫn với lời khai của các bị cáo và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt những người này. Xét thấy, việc vắng mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 292 và 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này.

[3] Tại phiên tòa, hai bị cáo Trần Văn Q và Nguyễn Quang S đều khai nhận mình nghiện ma túy. Ngày 15/9/2020, tại khu phố 1, phường H, thị xã T, tỉnh Bình Dương, hai bị cáo đang trên đường đi mua ma tuý về sử dụng thì bị bắt quả tang. Lời khai của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang do Công an phường H lập lúc 01 giờ 00 phút ngày 16/9/2020, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ khác trong hồ sơ. Theo Bản kết luận giám định số 587/MT-PC09 ngày 23/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương loại ma túy thu giữ của hai bị cáo là Methamphetamine có khối lượng 0,1776 gam. Như vậy, hành vi của hai bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản như trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách của Nhà nước trong quản lý, sử dụng chất ma túy. Hai bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nhưng vì muốn có ma túy sử dụng, thỏa mãn cơn nghiện nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần có mức hình phạt tương xứng đối với hai bị cáo và cách ly khỏi xã hội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Xét về vai trò của hai bị cáo: Vụ án có đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, trong đó bị cáo S thực hiện chính và cũng là người bỏ tiền mua ma tuý. Bị cáo Q thực hiện tội phạm với vai trò nhẹ hơn.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là cao so với lượng ma tuý các bị cáo tàng trữ nên Hội đồng xét xử xử phạt hai bị cáo hình phạt nhẹ hơn.

[9] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với số ma túy loại Methamphetamine có trọng lượng sau giám định là 0,1141 gam là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc và điện thoại di động hiệu Iphone màu đen là phương tiện các bị cáo liên lạc với nhau để bàn bạc mua ma túy nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước; trả chứng minh nhân dân cho bị cáo Trần Văn Q.

[10] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Q và Nguyễn Quang S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang S 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn Q 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/9/2020.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 0,1141 gam ma túy loại Methamphetamine còn lại sau giám định đựng trong bì thư niêm phong, ký hiệu 587/PC09 có dấu đỏ niêm phong của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu bạc và 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu đen.

- Trả lại cho bị cáo Trần Văn Q 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Văn Q.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc mỗi bị cáo Trần Văn Q và Nguyễn Quang S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về