TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Đắk Song xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 22/2021/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 03 năm 2021 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 27 tháng 8 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2021/QĐST-DS ngày 13 tháng 9 năm 2021, giữa các đương sự;
Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr. Có đơn xin vắng mặt. Trú tại: Tổ M, phường N, TP. P, tỉnh Lào Cai.
Bị đơn: Anh Nguyễn Văn A. Trú tại: Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 18 tháng 01 năm 2021 và quá trình giải quyết vụ án chị Vũ Thị Quỳnh Tr trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn A kết hôn vào ngày 10/7/2009 có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Quá trình chung sống chị Tr và anh A có 01 con chung tên Nguyễn Hồng H, sinh ngày 21/4/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, thời gian gần đây anh A hay rượu chè và chơi đA bạc về nhà còn đA đập vợ con. Chị và anh A đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Nhận thấy hạnh phúc không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị Tr cũng không còn tình cảm với anh A nữa nên chị Tr yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr xin được ly hôn với anh Nguyễn Văn A.
Về con chung: Chị Tr có nguyện vọng được nuôi con chung Nguyễn Hồng Hạnh, sinh ngày 21/4/2010 đến tưởi trưởng thành, không yêu cầu anh A cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Chị Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn A: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập anh Nguyễn Văn A nhiều lần nhưng anh không đến Tòa án làm việc. Tòa án xác minh nơi cư trú xác định anh Nguyễn Văn A có đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng để làm căn cứ giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án là đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án là đúng quy định, bị đơn không chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung vụ án: Qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đại diện VKSND huyện Đăk Song đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị giải quyết cho chị Vũ Thị Quỳnh Tr ly hôn với anh Nguyễn Văn A. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hồng Hạnh, sinh ngày 21/4/2010 cho chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giải quyết con chung với anh Nguyễn Văn A nên quan hệ tranh chấp được xác định là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Văn A có nơi cư trú tại thôn M, xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện Đăk Song theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Quỳnh Tr, HĐXX xét thấy:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr và anh Nguyễn Văn A kết hôn vào ngày 10/7/2009, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Đăk Nông, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hợp nhau. Thời gian gần đây anh A hay rượu chè và chơi đA bạc về nhà còn đA đập vợ con. Chị Tr và anh A đã sống ly thân từ cuối năm 2019 đến nay. Hiện nay chị Tr cũng không còn tình cảm với anh A nữa.
[3] Tuy Tòa án không tiến hành lấy được lời khai của anh A, nhưng trên cơ sở lời khai của chị Tr, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện và kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân xác định được do mâu thuẫn vợ chồng nên chị Tr và anh A đã sống ly thân với nhau từ cuối năm 2009 đến nay, chi Tr và con đã về quê sinh sống. Vì vậy HĐXX xét thấy yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Quỳnh Tr là có căn cứ, cần được chấp nhận.
[4] Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn A Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập cũng như các văn bản tố tụng nhưng bị đơn vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án không có lý do. Như vậy anh A đã từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đó là quyền được tham gia tố tụng, quyền được pháp luật bảo vệ, điều đó cũng thể hiện bị đơn đã không tôn trọng pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay bị đơn đã vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên HĐXX xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.
[5] Về con chung: Quá trình chung sống chị Tr và anh A có 01 con chung tên Nguyễn Hồng Hạnh, sinh ngày 21/4/2010. Chị Tr có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Hồng Hạnh đến tuổi trưởng thành. Hiện nay cháu Hạnh đang ở cùng chị Tr và nguyện vọng của cháu Nguyễn Hồng H cũng muốn ở với chị Tr. Vì vậy HĐXX quyết định giao con chung Nguyễn Hồng Hạnh, sinh ngày 21/4/2010 cho chị Vũ Thị Quỳnh Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành, chị Tr không yêu cầu anh A cấp dưỡng.
[6] Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[7] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Song về nội dung vụ án là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[8] Về án phí: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1, khoản 5 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 143; Điều 147; Điều 212; Điều 213; Điều 227; Điều 228; Điều 264; Điều 267; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84, 85 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Quỳnh Tr.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Quỳnh Tr được ly hôn với anh Nguyễn Văn A.
2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Hồng H, sinh ngày 21/4/2010 cho chị Vũ Thị Quỳnh Tr trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.
Anh Nguyễn Văn A có quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở thực hiện quyền này.
Trường hợp anh Nguyễn Văn A lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con chung có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh Nguyễn Văn A.
Hai bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con chung khi cần thiết.
3. Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị Vũ Thị Quỳnh Tr phải chịu toàn bộ số tiền trên, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005189 ngày 02/03/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk Song, tỉnh Đăk Nông.
5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết
Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 18/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về