Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 19/07/2021 về kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2021 VỀ KIỆN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 19/7/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 63/2021/TLST- HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 về việc kiện “ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:12/2021 /QĐXXST- HNGĐ ngày 21/6/2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Đỗ Đăng T; sinh năm 1984; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: Tự do Hộ khẩu thương trú: Thôn Cánh Đông, xã V, thành phố L, tỉnh L. (Vắng mặt tại phiên tòa)

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng V; sinh năm 1982; dân tộc: kinh; nghề nghiệp; tự do;

Đia chi: Tổ 17, phường K, thành phố L, tỉnh L. (có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện; bản tự khai nguyên đơn anh Đỗ Đăng T bày: Anh và chị Nguyễn Thị Hồng V kết hôn ngày 19/3/2013, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai. Hôn nhân dựa trên sự tự nguyện không do bên nào ép buộc. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm cho nhau, thường hay cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn xảy ra được chính quyền địa phương, bạn bè khuyên giải nhưng không được. Hiện anh chị đã sống ly thân mỗi người một nhà được hai năm, không ai quan tâm đến ai. anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Tòa án giải quyết để anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Hồng V nhằm ổn định cuộc sống sau này của mỗi người.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Đỗ Nguyễn Trâm Anh; sinh ngày 23/3/2013; Đỗ Tuấn Phong; sinh ngày 18/9/2014. Hiện đang ở với chị Nguyễn Thị Hồng V. Khi ly hôn anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được nuôi cháu Đỗ Tuấn Phong; sinh ngày 18/9/2014 vì cháu còn bé và anh cũng có thu nhập ổn định 6.000.000 triệu đồng.

Về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và tại phiên tòa, bị đơn chị Nguyễn Thị Hồng V nhất trí ý kiến của anh Đỗ Đăng T về ngày tháng năm kết hôn, địa điểm đăng ký kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn gia đình. Hiện anh chị đã sống ly thân anh Tuấn đã về sinh sống tại Thái Bình, không ai quan tâm đến ai. Đến nay anh Đỗ Đăng T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được ly hôn. Chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn chị cũng nhất trí được ly hôn.

Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung là Đỗ Nguyễn Trâm Anh; sinh ngày 23/3/2013 ; Đỗ Tuấn Phong ; sinh ngày 18/9/2014. Hiện đang ở với chị Nguyễn Thị Hồng V. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi cháu cả 2 người con.

Hiện chị Nguyễn Thị Hồng V làm sapa thu nhập khoảng 10 triệu đồng/ tháng.

Chị không nhất trí với nguyện vọng xin nuôi cháu Đỗ Tuấn Phong của anh Đỗ Đăng T vì kể khi ly thân đến nay gần 3 năm anh Đỗ Đăng T không về thăm nhà, luôn đi làm ăn xa, không chăm sóc con cái, thi thoảng gửi 1 chút tiền đóng góp còn không quan tâm gì đến các con. Hiện nay cháu Phong học gần nhà thuận tiện cho việc học tập của cháu hơn ở với bố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Tranh chấp phát sinh giữa Anh Đỗ Đăng T và chị Nguyễn Thị Hồng V là tranh chấp ly hôn, đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và tranh chấp trên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ngày 19/5/2021, Toà án ra thông báo số 29/TB-TA thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải. Tống đạt hợp lệ cho chị Nguyễn Thị Hồng V, nhưng chị Vân không đến tham gia phiện họp và phiên hòa giải, anh Đỗ Đăng T không yêu cầu Toà án hoà giải. Toà án tiến hành công khai chứng cứ, và lập biên bản không tiến hành hoà giải. Thông báo kết quả công khai chứng cứ ngày 24/5/2021 và ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21/6/2021 tống đạt hợp lệ cho anh Đỗ Đăng T, Tại phiên toà ngày 19/6/2021 anh Đỗ Đăng T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt ghi ngày 16/7/2021. Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh Đỗ Đăng T [3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Đỗ Đăng T và chị Nguyễn Thị Hồng V kết hôn ngày 19/3/2013, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai. Hôn nhân dựa trên sự tự nguyện không do bên nào ép buộc. Do vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng trong quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn, Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không hợp nhau, không thông cảm cho nhau, thường hay cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn xảy ra được chính quyền địa phương, bạn bè khuyên giải nhưng không được. Hiện anh chị đã sống ly thân mỗi người một nhà không ai quan tâm đến ai. Tại phiên tòa hôm nay anh Đỗ Đăng T có đơn xin xét xử vắng mặt và đề nghị Tòa án giải quyết để anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Hồng V. tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Hồng V Xét thấy mâu thuẫn gia đình anh Đỗ Đăng T và Nguyễn Thị Hồng V đã trở lên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không ai quan tâm đến ai, vợ chồng đã sống ly thân nên cuộc sống chung không thể kéo dài nên nhất trí đề nghị Tòa án giải quyết cho anh chị được lý hôn. Vậy cần chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của anh Đỗ Đăng T giải quyết cho được ly hôn với chị Nguyễn Thị Hồng V theo quy định khoản 1 Điều 51; Điều 55

.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung cháu Đỗ Nguyễn Trâm Anh; sinh ngày 23/3/2013; Đỗ Tuấn Phong; sinh ngày 18/9/2014. Hiện các cháu đang ở với chị Nguyễn Thị Hồng V, chị Nguyễn Thị Hồng V nguyn vọng được trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục cháu Đỗ Nguyễn Trâm Anh; sinh ngày 23/3/2013 và cháu Đỗ Tuấn Phong cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi, không yêu cầu anh Tun phi cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét vấn đề về nuôi con thấy rằng: Cháu Đỗ Nguyễn Trâm Anh và cháu Đỗ Tuấn Phong đang sinh sống cùng với chị Nguyễn Thị Hồng V, chị chị Nguyễn Thị Hồng V làm tự do nhưng có việc làm ổn định mức thu nhập khoảng 10.000.000 triệu đồng/ tháng. cháu Đỗ Nguyễn Trâm Anh có nguyện vọng được ở với mẹ.

Anh Tuấn là lái xe đi làm xa, luôn vắng nhà, nên việc chăm sóc cháu Phong là rất khó khăn, không thuận tiện cho việc học tập của cháu. Anh Tuấn có trình bày thu nhập là 6 triệu đống/ tháng. Tuy nhiên Tòa án đề nghị anh cung cấp chứng cứ về thu nhập anh Tuấn đã không xuất trình căn cứ chứng minh thu nhập.

Do vậy, xét yêu cầu xin nuôi con của chị Vân và không yêu cầu anh Đỗ Đăng T cấp dưỡng nuôi con là phù hợp theo điều 81; 82;83 Luật hôn nhân và gia đình

[5] Về tài sản chung: anh Đỗ Đăng T không yêu cầu Toà án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng , án phí, lệ phí Tòa án để tính án phí cho các đương sự

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản1 Điều 51; Điều 55; 81 ;82 ;83 Luật hôn nhân và gia đình;

khoản 4 điều 147; điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng, án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho Đỗ Đăng T được ly hôn chị Nguyễn Thị Hồng V.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Nguyễn Trâm Anh; sinh ngày 23/3/2013và cháu Đỗ Tuấn Phong; sinh ngày 18/9/2014 cho chị Nguyễn Thị Hồng V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Đỗ Đăng T không phải đóng góp phí tổn nuôi con. Anh Đỗ Đăng T có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở anh Đỗ Đăng T thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Anh Đỗ Đăng T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000544 ngày 15/04/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai.

Bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Nguyên đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2021/HNGĐ-ST ngày 19/07/2021 về kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về