Bản án 18/2020/KDTM-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 18/2020/KDTM-ST NGÀY 02/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 02 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số: 09/2020/TLST-KDTM ngày 06 tháng 5 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 252/2020/QĐXXST-KDTM ngày 20 tháng 10 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH MTV Gold O (gọi tắt là Công ty).

Địa chỉ trụ sở: ấp 5, xã Đức Hòa Đông, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Đại diện hợp pháp của Công ty TNHH MTV Gold O là ông Phạm Lộc Hiền, sinh năm 1962 (có mặt).

Địa chỉ cư trú: 304 C1 đường Tân Vĩnh, Phường 6, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

+ Bà Nguyễn Thị Như M, sinh năm 1968 (có mặt).

+ Ông Phan Thanh L, sinh năm 1964 (vắng mặt).

Địa chỉ cư trú: tổ 8, ấp Bình Thành, xã BM, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, các lần hòa giải và tại phiên tòa đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Phạm Lộc Hiền trình bày:

Bà Nguyễn Thị Như M và ông Phan Thanh L - tên bảng hiệu là Hồng L có mua thuốc bảo vệ thực vật của Công ty TNHH MTV Gold O từ năm 2010, là khách hàng mua bán lẻ nên Công ty không ký hợp đồng đại lý. Công ty bán thuốc bảo vệ thực vật cho bà M, ông L, thời hạn trả tiền là sau 90 ngày. Tuy nhiên, bà M, ông L đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận từ năm 2011.

Ngày 31/5/2014 bà M đại diện cửa hàng Hồng L xác nhận còn nợ Công ty 40.328.600 đồng. Công ty đã nhiều lần liên hệ bà M để đòi nợ nhưng bà M, ông L không hợp tác. Công ty yêu cầu bà M, ông L phải trả số tiền nợ 40.328.600 đồng và phải trả lãi trên số tiền này theo mức lãi suất 0,75%/tháng, tính từ ngày 31/5/2020 đến ngày 31/8/2019 là 60 tháng, tiền lãi được tính cụ thể như sau: 60 tháng x 40.328.600 đồng x 0,75%/tháng = 18.147.870 đồng.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Như M trình bày: Bà thống nhất còn nợ Công ty số tiền mua thuốc bảo vệ thực vật là 40.328.600 đồng như bà đã xác nhận công nợ, bà yêu cầu không trả lãi và xin được trả dần 1.000.000 đồng/tháng cho đến khi dứt nợ.

Tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày trước đây có yêu cầu bà M, ông L trả tiền lãi 18.147.870 đồng, nay yêu cầu bà M, ông L trả 3.000.000 đồng trên tổng số 18.147.870 đồng, rút lại số tiền lãi 15.147.870 đồng. Vậy tổng cộng vốn, lãi là 43.328.600 đồng và yêu cầu trả dứt điểm một lần.

Tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án: Biên bản xác nhận công nợ; Đơn xác nhận nơi cư trú; Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là về kinh doanh thương mại - hợp đồng mua bán; bị đơn có địa chỉ thường trú tại địa bàn huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C tại khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2] Về áp dụng luật giải quyết tranh chấp: Giao dịch mua bán giữa các bên được xác lập từ năm 2010, năm 2014 có xác nhận công nợ - thời điểm Bộ luật Dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 đang có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, giao dịch dân sự của các bên đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành (năm 2015) thì áp dụng luật hiện hành để giải quyết. Trong vụ án này giao dịch của các bên đảm bảo nội dung và hình thức phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật thương mại 2005 để giải quyết

[2] Về nội dung vụ án: Bà M, ông L - chủ cửa hàng Hồng L có mua vật tư nông nghiệp của Công ty TNHH MTV Gold O, ngày 31/5/2014 bà M xác nhận còn nợ Công ty số tiền 40.328.600 đồng. Bị đơn bà M thừa nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 40.328.600 đồng, xin không trả lãi, trả dần mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi dứt nợ.

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử nhận định: Giao dịch mua bán vật tư nông nghiệp giữa các bên được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện thỏa thuận, có nội dung và hình thức không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 430 Bộ luật Dân sự năm 2015 và Điều 24 của Luật Thương mại năm 2005, nên làm phát sinh, quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Do bị đơn vị phạm nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả nợ và lãi là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Có bên có thoả thuận lãi suất chậm trả là 0.04%/ngày (1,2%/tháng), lãi suất này phù hợp quy định pháp luật, tuy nhiên nguyên đơn yêu cầu mức lãi suất 0,75%/tháng, đến thời điểm 31/8/2019 với số tiền 18.147.870 đồng, nhưng nguyên đơn chỉ yêu cầu bị đơn trả lãi 3.000.000 đồng, rút lại yêu cầu số tiền lãi 15.147.870 đồng, Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu này. Xét đây là sự tự nguyện của nguyên đơn có lợi cho bị đơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Xét về trách nhiệm liên đới giữa vợ và chồng: thời gian giao kết hợp đồng mua bán thì bà M, ông L hiện đang là vợ chồng, hiện nay cũng là vợ chồng. Mặc khác, việc kinh doanh mua bán trong gia đình, nhằm mục đích phục vụ sinh hoạt chung của gia đình, nên vợ chồng cùng có trách nhiệm chung để thanh toán nợ là phù hợp quy định pháp luật tại Điều 27 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Do đó, nguyên đơn yêu cầu vợ chồng M, L cùng liên đới chịu trách nhiệm thanh toán nợ cho nguyên đơn là có căn cứ phù hợp quy định pháp luật.

[4] Về án phí:

Do vi phạm nghĩa vụ nên bà M, ông L phải chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Với yêu cầu được chấp nhận Công ty được nhận lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 430 của Bộ luật Dân sự 2015;

Căn cứ Điều 306 Luật thương mại năm 2005.

Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Gold O đối với số tiền lãi 15.147.870 đồng.

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn Công ty TNHH MTV Gold O đối với bị đơn bà Nguyễn Thị Như M, ông Phan Hồng L.

Buộc bà Nguyễn Thị Như M, ông Phan Hồng L phải có trách nhiệm trả cho Công ty TNHH MTV Gold O số tiền 43.328.600 đồng.

Kể từ ngày 03/12/2020 cho đến khi thi hành án xong thì tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả tiền lãi cho bên được thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Như M, ông Phan Hồng L phải chịu 3.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.

Công ty TNHH MTV Gold O được nhận lại 1.538.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0006474 ngày 13/5/2020 và 1.462.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai thu số: 0006446 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.

4. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/KDTM-ST ngày 02/12/2020 về tranh chấp hợp đồng mua bán

Số hiệu:18/2020/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về