Bản án 18/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 19/2020/TLST- HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 05/11/1992; tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản P, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông: Lò Văn T, sinh năm 1964 (Đã chết năm 2015) và con bà: Tòng Thị Á, sinh năm 1964 (Đã chết năm 2018); bị cáo có vợ là Bạc Thị Yến G, sinh năm 1990 và có 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân của bị cáo: Năm 2019 sử dụng ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/10/2020 đến ngày 29/10/2020 và bị tạm giam từ ngày 29/10/2020 cho đến nay; bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Quàng Thị D, sinh năm 1991, trú tại bản N, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; vắng mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T có: Ông Lê Đình Thu - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 25/10/2020, Lò Văn T liên lạc bằng điện thoại di động với Quàng Thị D, sinh năm 1991, trú tại bản N, xã Quài C, huyện T, tỉnh Điện Biên; để trao đổi việc mua bán trái phép chất ma túy. Sau khi trao đổi qua điện thoại, T đi bộ từ nhà ở bản P đến khu vực nhà máy xi măng cũ thuộc bản K, xã Q. Khi đến nơi do đã hẹn từ trước, nên khi đến T mua được của D 01 gói Heroine được bọc bằng nilon màu trắng với giá 500.000đ. Việc trao đổi mua bán ma túy chỉ có T và D chỉ có hai người biết không có ai tham gia cùng, không cân xác định khối lượng ma túy, T mua ma túy nhằm mục đích sử dụng, sau khi trao đổi mua bán ma túy xong D đi đâu T không hỏi nên không biết, còn T đi về nhà. Khi về đến nhà T ra đằng sau nhà lấy gói Heroine vừa mua được dùng tay cấu một ít để sử dụng bằng hình thức hít, số Heroine còn lại T gói lại như cũ và cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi vào nhà ngủ. Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 26/10/2020, T dùng dao lam cắt một phần nhỏ Heroine ra cho vào mảnh giấy để sử dụng. Đến hồi 10 giờ cùng ngày, khi Lò Văn T đang chuẩn bị sử dụng Heroine thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phối hợp với Công an xã Quài Nưa phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T được 01 gói nghi Heroine được bọc bằng túi nilon màu trắng và 01 gói nghi Heroine được bọc bằng giấy, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng. Bị cáo và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở các gói niêm phong có sự chứng kiến của bị cáo: Đối với 02 gói nghi Heroine thu giữ của bị cáo được xác định tổng khối lượng 0,85 gam và trích 0,11 gam làm mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 133 ngày 02/11/2020. Tại bản Kết luận giám định số: 971/GĐ- PC09 ngày 09/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 04/CT-VKS-TG ngày 15 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố bị cáo về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa vị Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tuyên tịch thu tuyên hủy 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1992, trú tại bản P, xã Q, huyện T, bắt quả tang thu giữ hồi 10 giờ 15 phút ngày 26/10/2020, tại bản P, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên. Khối lượng 0,74g (Không phẩy bảy mươi bốn gam) chất bột màu trắng nghi Heroine và 01 (Một) vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T ngày 26/10/2020; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 (Một) mảnh giấy. Mặt sau niêm phong trên các mép dán có các chữ ký giáp lai họ tên của Lò Văn H, Lường Văn Đ, Phạm Minh H, Lường Văn B, Lò Văn T và in hai hình dấu niêm phong của Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, bên ngoài gói niêm phong được dán kín bằng một lớp nilon màu trắng trong suốt. (Tại bản kết luận giám định số 971/GĐ-PC09 ngày 09/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T là chất ma túy loại Heroine).

Đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Lò Văn T: Theo tài liệu có trong hồ sơ thì thấy, bị cáo đã rất tự giác giao nộp 02 gói Heroine mà bị cáo mua với mục đích để sử dụng dần, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS cho bị cáo; đồng thời đề nghị HĐXX xem xét hoàn cảnh nhân thân của bị cáo, bị cáo có học vấn 12/12 và đã được học tại Trường cao đẳng sư phạm Sơn La, nhưng vì không xin được việc làm nên dẫn đến cảm giác chán nản. Hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, bị cáo là dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn.

Từ những nhận định nêu trên đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo mức thấp nhất có thể, không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo:

Khong 20 giờ 00 phút ngày 25/10/2020, Lò Văn T đã trao đổi mua bán trái phép với Quàng Thị D, sinh năm 1991, trú tại bản N, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên và đã mua được của Diên 01 gói Heroine được bọc bằng nilon màu trắng với giá 500.000đ. Việc trao đổi mua bán ma túy chỉ có Tvà D chỉ có hai người biết không có ai tham gia cùng, không cân xác định khối lượng ma túy, T mua ma túy nhằm mục đích sử dụng, ngoài ra không có mục đích nào khác. Khi mua được ma túy về nhà, T lấy gói Heroine vừa mua được dùng tay cấu một ít để sử dụng bằng hình thức hít, số Heroine còn lại T gói lại như cũ và cất giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc rồi đi vào nhà ngủ. Khoảng 09 giờ 50 phút ngày 26/10/2020, thi dùng dao lam cắt một phần nhỏ Heroine ra cho vào mảnh giấy để sử dụng. Đến hồi 10 giờ cùng ngày, khi Lò Văn T đang chuẩn bị sử dụng Heroine thì bị tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo phối hợp với Công an xã Quài Nưa phát hiện bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T được 01 gói nghi Heroine được bọc bằng túi nilon màu trắng và 01 gói nghi Heroine được bọc bằng giấy, tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng. Bị cáo và vật chứng đã được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ. Khi bị cáo và vật chứng được đưa về Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo; đã tiến hành mở niêm phong vật chứng thu giữ để xác định khối lượng có sự chứng kiến của bị cáo và bị cáo đã thừa nhận khối lượng Heroine thu giữ là 0,85 gam được xác định là hoàn toàn chính xác. Qua hành vi của bị cáo có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Xét tình tiết định khung hình phạt đối với bị cáo: Khối lượng Heroine bị thu giữ của bị cáo là 0,85 gam nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích sử dụng; bởi vậy với hành vi và khối lượng Heroine thu giữ bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; được bố mẹ nuôi dưỡng cho học hết lớp 12/12, sau đó đi học tại Trường cao đẳng sư phạm tỉnh Sơn La đến năm 2014 tốt nghiệp xong ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 2015 kết hôn với Bạc Thị Yến G và có 02 người con. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2019. Đến ngày 29/10/2020 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo khởi tố về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong những năm qua Nhà nước đã tốn sức người, sức của để phòng chống tệ nạn ma túy; những cuộc tuyên truyền về tác hại ma túy đã được đến với người dân, bản thân bị cáo cũng thừa nhận mình đã được tiếp cận từ những cuộc tuyên truyền đó và hiểu rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe, nhưng vì bản thân không vượt qua được những cám dỗ, đua đòi cùng bạn bè sử dụng ma túy. Từ những lần sử dụng ma túy đó dẫn đến bản thân nghiện ma túy, cũng chính vì để thỏa mãn cơn nghiện ma túy mà bị cáo bất chấp quy định của pháp luật mua ma túy để sử dụng. Qua hành vi của bị cáo Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo thiếu ý thức rèn luyện, coi thường pháp luật; bị cáo là người có nhân thân xấu. Bởi vậy, Hội đồng xét xử cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội và cũng là cơ hội để giúp bị cáo cai nghiện ma túy.

[5] Theo khoản 5 Điều 249 BLHS quy định; bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Lò Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo Thi đề nghị tuyên mức hình phạt thấp nhất có thể đối với bị cáo, HĐXX sẽ căn cứ vào luận cứ mà người bào chữa khi lượng hình để đưa ra mức án phù hợp với tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo.

[8] Đối với Quàng Thị D đã bán heroine cho bị cáo,quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất nhưng D không thừa nhận đã bán ma túy cho bị cáo, ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu, chứng cứ nào chứng minh vì vậy không có cơ sở để xử lý đối với D; do đó HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS và khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để xử lý vật chứng như sau: Cần tịch thu 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1992, trú tại bản P, xã Q, huyện T, bắt quả tang thu giữ hồi 10 giờ 15 phút ngày 26/10/2020, tại bản Pha Nàng, xã Quài Nưa, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Khối lượng 0,74g (Không phẩy bảy mươi bốn gam) chất bột màu trắng nghi Heroine và 01 (Một) vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn T ngày 26/10/2020; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 (Một) mảnh giấy. Mặt sau niêm phong trên các mép dán có các chữ ký giáp lai họ tên của Lò Văn H, Lường Văn Đ, Phạm Minh H, Lường Văn B, Lò Văn T và in hai hình dấu niêm phong của Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, bên ngoài gói niêm phong được dán kín bằng một lớp nilon màu trắng trong suốt. (Tại bản kết luận giám định số 971/GĐ-PC09 ngày 09/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T là chất ma túy loại Heroine); do số ma túy thu giữ là chất Nhà nước cấm lưu hành, còn đối với 01 mảnh giấy, 01 mảnh nilon màu trắng và 01 phong bì dùng niêm phong không có giá trị sử dụng để tuyên tiêu hủy

[9] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và bị cáo có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[10] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thấy rằng: Bị cáo không có ý kiến khiếu nại các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với bị cáo, tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn T 18 (Mười tám) tháng tù; thời gian thi hành án phạt tù tính từ ngày 26/10/2020.

3. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy thu 01 phong bì niêm phong vật chứng màu trắng, các mép đều được dán kín. Mặt trước gói phong bì có ghi: Vật chứng còn lại của Lò Văn T, sinh năm 1992, trú tại bản P, xã Q, huyện T, bắt quả tang thu giữ hồi 10 giờ 15 phút ngày 26/10/2020, tại bản Pha Nàng, xã Quài Nưa, huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Khối lượng 0,74g (Không phẩy bảy mươi bốn gam) chất bột màu trắng nghi Heroine và 01 (Một) vỏ phong bì dùng để niêm phong vật chứng bắt quả tang, thu giữ của Lò Văn Thi ngày 26/10/2020; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 (Một) mảnh giấy. Mặt sau niêm phong trên các mép dán có các chữ ký giáp lai họ tên của Lò Văn H, Lường Văn Đ, Phạm Minh H, Lường Văn B, Lò Văn T và in hai hình dấu niêm phong của Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, bên ngoài gói niêm phong được dán kín bằng một lớp nilon màu trắng trong suốt. (Tại bản kết luận giám định số 971/GĐ-PC09 ngày 09/11/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T là chất ma túy loại Heroine). Đặc điểm vật chứng nói trên được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

4. Án phí: Bị cáo Lò Văn T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lò Văn T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 29/12/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

262
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về