Bản án 18/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VÂN HỒ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 18/2020/HSST NGÀY 23/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST- ST ngày 12 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo.

Lầu A T; tên gọi khác: Không, sinh năm 1970, tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản P, xã V, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lầu A G và bà Mùa Thị K (Đều đã chết); bị cáo không có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vân Hồ từ ngày 13/9/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h ngày 12/9/2020 Tổ Công tác công an xã Xuân Nha làm nhiệm vụ tại: Đường tỉnh lộ 102, thuộc địa phận bản Nà Hiềng, xã Xuân Nha, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, kiểm tra, phát hiện Lầu A T đang cầm trên tay trái 01 gói nolon màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng, T khai nhận đó là Heroine T cất giấu để sử dụng cho bản thân. T đã bị Tổ Công tác công an xã Xuân Nha lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất chất bột màu trắng. Bị cáo và vật chứng bị dẫn giải về Công an huyện Vân Hồ để điều tra, xử lý.

Cùng ngày, tại Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, tiến hành cân tịnh chất bột màu trắng thu giữ của Lầu A T, có khối lượng là 0,16 gam. Lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định, ký hiệu T gửi giám định chất ma túy, loại ma túy.

Tại kết luận giám định số: 1479 ngày 16/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Sơn La đã kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,16 gam. Tổng khối lượng chất ma túy thu giữ được là 0,16 gam, loại Heroine, hoàn lại mẫu giám định là 0,10 gam. ” Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Vân Hồ và tại phiên tòa Lầu A T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Khoảng 16 giờ ngày 12/9/2020, do bản thân là người nghiện chất ma túy, T đã gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ, khoảng 50 tuổi, ở khu vực bản Pa Cốp, xã Vân Hồ, huyện Vân Hồ, 01 gói Heroine được gói bằng nilon màu trắng với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, T cho gói ma túy vào trong một vỏ bao thuốc lào hiệu Tiên Lãng cầm trên tay rồi đi về nhà. T đang đi trên đường dân sinh thuộc bản Pa Cốp thì gặp một người tên là U, qua nói chuyện biết U đi tìm thuê người sửa nhà, T xin U đi sửa nhà thuê với U. U đồng ý, U trở T đi đến bản Nà Hiềng, xã Xuân Nha, huyện Vân Hồ, thì U bảo T xuống xe đứng đợi U đi mua thức ăn. Khi T đang đứng đợi thì bị Công an xã Xuân Nha làm nhiệm vụ kiểm tra hành chính và phát hiện T đang cất giấu ma túy trong vỏ bao thuốc lá. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại bản Cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Lầu A T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lầu A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túyý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lầu A T từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị áp dụng các điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,10 gam Heroine + vỏ gói gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lầu A T.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Ý kiến bị cáo: Nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Kiểm sát viên không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Ngày 12/9/2020, Lầu A T bị phát hiện và bắt quả tang tàng trữ trái phép 0,16 gam Heroine, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ, đã vi phạm điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[2]. Tính chất hành vi của bị cáo: Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, ma túy là vật cấm lưu hành, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy làm lây lan phát sinh các tệ nạn xã hội nhất là tội phạm về ma túy. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, cần có mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm dăn đe, giáo dục phòng ngừa chung.

[3] Xét nhân thân bị cáo: Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là đối tượng nghiện chất ma túy, coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma trU, qua xác minh bị cáo không có tài sản gì có giá trị, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Vân Hồ, Kiểm sát viên trong qua trình điều tra, đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên tham gia tố tụng tuân theo và chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,10 gam Heroine + 01 vỏ gói gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lầu A T là vật cấm lưu hành hoặc không còn giá trị sử dụng tuyên tịch thu tiêu hủy.

Đối với nguồn gốc số ma túy thu giữ: Theo lời khai của Lầu A T, số ma túy bị cáo mua của một người phụ nữ dân tộc mông, không quen biết. Do vậy không có căn cứ để xử lý đối với người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo.

[7] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, sự;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự  tuyên bố bị cáo Lầu A T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lầu A T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là từ ngày 13/9/2020.

Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng vỏ gói niêm phong ban đầu + vỏ gói ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,10 gam Heroine + 01 vỏ gói gửi giám định; 01 phong bì niêm phong bên trong đựng que thử ma túy đối với Lầu A T.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lầu A T phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2020/HSST ngày 23/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Hồ - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về