TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 18/2020/HS-PT NGÀY 17/02/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 17/02/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 280/TLPT-HS ngày 03 tháng 12 năm 2019, đối với bị cáo Đoàn Văn T và Giáp Văn T3, do có kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn T và Giáp Văn T3 đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Đoàn Văn T, sinh năm 1990;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh B;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa:9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Đoàn Văn B, sinh năm 1966;
Con bà: Giáp Thị T1, sinh năm 1966;
Vợ: Nguyễn Thị T2, sinh năm 1991; Có 03 con, lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2019;
Anh chị em ruột: Gia đình bị cáo có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 10/01/2019 đến ngày 14/01/2019, thay thế biện pháp ngăn chặn. Hiện tại ngoại.(có mặt tại phiên tòa) 2. Họ và tên: Giáp Văn T3, sinh năm 1977;
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh B;
Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa:8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Giáp Văn H, sinh năm 1956; Con bà: Đặng Thị L, sinh năm 1956;
Vợ: Nguyễn Thị C, sinh năm 1979; con: 03 con, lớn sinh năm 1999, nhỏ sinh năm 2018;
Anh chị em ruột: Gia đình bị cáo có 2 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, từ ngày 09/01/2019 đến ngày 14/01/2019, thay thế biện pháp ngăn chặn ngày. Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên tòa).
Trong vụ án còn có 03 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 21 giờ 30 phút ngày 08/01/2019 tại đoạn đường Quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn 6, xã Việt Tiến, huyện Việt Yên, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an xã Việt Tiến, huyện Việt Yên bắt quả tang Giáp Văn T3, sinh năm 1977, trú quán: thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh B có hành vi vận chuyển trái phép pháo đi bán. Vật chứng thu giữ khi bắt quả tang gồm:
- 01 thùng cát tông bên trong đựng 18 bệ pháo loại 36 quả một bệ;
- 01 xe đạp điện màu đỏ;
- 01 điện thoại Nokia;
- Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.130.000 đồng;
Quá trình lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, T3 khai nhận số pháo trên là T3 mua của Đoàn Văn T, sinh năm 1990, trú quán: thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh B.
Ngày 08/01/2019 và ngày 09/01/2019, Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T3 và T. Kết quả khám xét nơi ở của T3 thu giữ: 01 bao tải màu trắng đựng 08 bệ pháo và cạnh bao tải 01 bệ pháo cùng loại 36 quả một bệ được niêm phong trong thùng cát tông; tại nơi ở của T không thu giữ được gì.
Ngày 10/01/2019, T đến Cơ quan điều tra Công an tỉnh Bắc Giang đầu thú và tự nguyện giao nộp 01 điện thoại di động Itel màu đen.
Ngày 09/01/2019, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bắc Giang ra Quyết định trưng cầu giám định số 54, trưng cầu Viện khoa học hình sự, Bộ Công an giám định để xác định các mẫu vật thu giữ đã được niêm phong khi bắt quả tang và khi khám xét khẩn cấp nhà của T3 có phải là pháo nổ hoặc pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ) không? Khối lượng? Ngày 09/01/2019, Viện khoa học hình sự, Bộ Công an có bản kết luận giám định số 191/ C09 - P2 kết luận:
- 18 khối hộp, vỏ bằng giấy màu, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng là 26,6 kg.
- 09 khối hộp, vỏ bằng giấy màu, bên trong mỗi khối hộp có 36 vật hình trụ, vỏ giấy được liên kết với nhau đều là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Khối lượng là 13 kg.
Ngày 23/4/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Việt Yên ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 155 trưng cầu Viện khoa học hình sự, Bộ Công an giám định để xác định khối lượng từng bệ pháo thu giữ khi bắt quả tang và khám xét khẩn cấp là bao nhiêu.
Ngày 16/5/2019, Viện khoa học hình sự, Bộ Công an có bản kết luận giám định số 2134A/ C09 -P2 kết luận:
- Mẫu vật thu giữ khi bắt quả tang đối tượng Giáp Văn T3 gồm 18 khối hộp được ký hiệu từ T1 đến T18 có khối lượng là :
+ Mẫu có ký hiệu T1, T5, T11, T13, T16 cùng là 1,6 kg;
+ Mẫu có ký hiệu T2, T9, T14, T17 cùng là 1,5 kg;
+ Mẫu có ký hiệu T3, T4, T6, T7, T8, T10, T12, T15, T18 cùng là 1,4 kg;
- Mẫu vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp nhà đối tượng Giáp Văn T3 gồm 09 khối hộp được ký hiệu từ M1 đến M9 có khối lượng là:
+ Mẫu có ký hiệu M1, M2, M3, M4, M9 cùng là 1,4 kg;
+ Mẫu có ký hiệu M5, M6, M7, M8 cùng là 1,5 kg.
Quá trình điều tra Giáp Văn T3 và Đoàn Văn T khai nhận như sau:
Đoàn Văn T và Giáp Văn T3 là người cùng thôn, có mối quan quen biết nhau. Khoảng đầu tháng 8 năm 2018 thông qua thông tin xã hội, T điều khiển xe mô tô, biển kiểm soát 98M5- 3858 từ nhà đến đoạn đường quốc lộ 37 cạnh cổng công ty may Hà Phong thuộc địa phận xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang để mua của một người đàn ông không quen biết 26 bệ pháo (loại 36 quả một bệ), giá 300.000 đồng/bệ, hết tổng số tiền 7.800.000 đồng đựng trong bao tải đem về nhà mình cất giấu tại chuồng gà chờ đến tết Nguyên đán bán kiếm lời. Đến đầu tháng 01 năm 2019, T được Giáp Văn T3 gọi điện thoại đặt vấn đề mua pháo (T3 dùng số điện thoại 0936.599.510; T dùng số điện thoại 0393.481.959) thì T đồng ý bán cho T3 với giá 420.000 đồng/ bệ. Sau đó, T và T3 đã thực hiện 03 lần mua bán tổng số 26 bệ pháo, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 06/01/2019, T3 gọi điện đặt vấn đề mua của T 05 bệ pháo, đồng thời bảo T đem đến nhà cho T3, T đồng ý. Khoảng 19 giờ T lấy 05 bệ pháo cho vào bao tải rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M5- 3858 chở đến cổng nhà T3 bán cho T3 với tổng số tiền 2.100.000 đồng. Sau khi mua được pháo, T3 mang vào nhà bếp của mình cất giấu để tìm cách bán kiếm lời, còn T điều khiển xe mô tô đi về.
Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ 15 phút ngày 07/01/2019, T3 gọi điện cho T bảo bán cho 13 bệ pháo và yêu cầu T đem đến nhà giao cho T3, T đồng ý. Đến khoảng 19 giờ 40 phút, T lấy 13 bệ pháo cho vào thùng cát tông rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M5- 3858 chở đến cổng nhà T3 bán cho T3 với tổng số tiền 5.460.000 đồng. Sau khi mua được pháo, T3 tiếp tục mang vào nhà bếp của mình rồi lấy 05 bệ pháo mua ngày 06/01/2019 để chung vào thùng bìa cát tông đựng số pháo đã mua được trước đó để tìm cách bán kiếm lời.
Lần thứ ba: Khoảng 14 giờ ngày 08/01/2019, T3 gọi điện đặt vấn đề mua của T 08 bệ pháo và yêu cầu T đem pháo đến nhà giao cho T3, T đồng ý. Đến khoảng 18 giờ 45 phút, T lấy 08 bệ pháo còn lại đựng trong bao tải rồi điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M5- 3858 chở đến cổng nhà T3 bán cho T3 với tổng số tiền 3.360.000đ ồng. Sau khi mua được pháo, T3 tiếp tục mang vào nhà bếp của mình cất giấu để tìm cách bán kiếm lời, còn T điều khiển xe mô tô bỏ đi.
Sau khi mua pháo, khoảng 21 giờ ngày 08/01/2019, T3 đang ở nhà thì có một người đàn ông không quen biết gọi điện đặt vấn đề mua 18 bệ pháo. Sau khi thỏa thuận, T3 đồng ý bán cho người đàn ông này với giá 430.000 đồng/ bệ và cùng thống nhất địa điểm giao hàng tại ven đường Quốc lộ 37 cạnh nhà nghỉ Trúc Mai thuộc địa phận thôn Mai Thượng, xã Hương Mai, huyện Việt Yên. Sau đó, T3 lấy 18 bệ pháo (pháo mua của T các ngày 06/01/2019, 07/01/2019) đóng vào thùng cát tông, dùng xe đạp điện chở đến điểm hẹn để giao hàng. Đến hồi 21 giờ 30 phút cùng ngày, T3 vận chuyển pháo đến đoạn đường quốc lộ 37 thuộc địa phận thôn 6, xã Việt Tiến thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bắc Giang phối hợp với Công an xã Việt Tiến, huyện Việt Yên bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng có liên quan. Ngoài ra, Cơ quan điều tra khám xét nhà T3 thu giữ: 08 bệ pháo mua của T và 01 bệ pháo (ký hiệu M5) của T3 được một người đàn ông tên Hưng (T3 khai không biết họ, địa chỉ cụ thể) cho khoảng tháng 4/2018 để đốt tết, khi cả hai đi làm cùng nhau tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Ngày 10/01/2019, Đoàn Văn T đến đầu thú tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Bắc Giang. Trong các ngày 19/01/2019 và 04/4/2019, T tự nguyện nộp tại Cơ quan điều tra tổng số tiền 10.920.000 đồng do bán pháo mà có.
Ngày 09/6/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Việt Yên đã cho T và T3 nhận dạng 18 bệ pháo thu giữ khi bắt quả tang để xác định bệ pháo nào mua bán ngày 06/01/2019 và 07/01/2019, nhưng cả hai đều không xác định được.
Trong vụ án này, các đối tượng nam giới có hành vi bán pháo cho T và đặt vấn đề mua pháo của T3 nhưng cả T và T3 đều không biết tên, địa chỉ và không xác định được số điện thoại khi thực hiện giao dịch mua bán pháo. Kết quả điều tra không chứng mình được nhân thân, lai lịch của các đối tượng này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98M5- 3858 và chiếc xe đạp điện do T và T3 sử dụng làm phương tiện vận chuyển mua, bán pháo. Kết quả điều tra xác định chiếc xe mô tô là tài sản của ông Đoàn Văn B, sinh năm 1966 (bố bị cáo T); chiếc xe đạp điện là tài sản của cháu Giáp Hải Thương, sinh năm 2008 (con bị cáo T3). Cả ông Bình và cháu Thương đều không biết các bị cáo dùng tài sản của mình vào việc phạm tội nên Cơ quan điều tra không thu giữ xe mô tô và trả lại xe đạp điện cho cháu Thương vào ngày 10/6/2019.
Đối với bố mẹ, vợ con T và vợ con T3 đều không biết các bị cáo mua bán pháo và cất giấu tại nhà nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với việc T3 tàng trữ 01 bệ pháo có khối lượng 1,5kg mục đích để đốt tết. Do khối lượng pháo chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tàng trữ hàng cấm” nên Công an huyện Việt Yên đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với T3 theo Nghị Định 167 của Chính phủ.
Quá trình điều tra xác định điện thoại thu giữ của T3 và T, các bị cáo sử dụng để liên lạc mua bán pháo; số tiền 1.130.000 đồng thu của bị cáo T3 không sử dụng vào việc phạm tội. Toàn bộ số tài sản trên và số pháo, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng để xử lý theo quy định của pháp luật.
Quá trình điều tra các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại bản Cáo trạng số 76/CT-VKS ngày 28/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên truy tố các bị cáo Đoàn Văn T, Giáp Văn T3 về tội “ Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Bản án hình sự sơ thẩm số: 85/2019/HS-ST ngày 22/10 /2019 của Tòa án nhân dân huyệnViệt Yên, tỉnh Bắc Giang đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn T, Giáp Văn T3 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1, 4 Điều 190; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ bị cáo từ ngày 10/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Phạt tiền: 20.000.000 đồng.
Áp dụng điểm c khoản 1, 4 Điều 190; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Giáp Văn T3 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ bị cáo từ ngày 09/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Phạt tiền: 20.000.000 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/10/2019 bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 kháng cáo bản án sơ thẩm đều với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo với lý do:
Bị cáo T trình bày: Gia đình bị cáo có bố mẹ già không lao động được, bản thân bị cáo phải nuôi 3 con còn nhỏ.
Bị cáo T3 trình bày: Bị cáo có vợ thường xuyên ốm yếu, co lứn đi bộ đội, con nhỏ mới sinh, bị cáo là lao động chính.
Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do các bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà các bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Án phí: Bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Bị cáo Đoàn Văn T và Giáp Văn T3 không có tranh luận gì.
Bị cáo Đoàn Văn T nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Giáp Văn T3 nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 đã được làm trong thời hạn kháng cáo và gửi đến Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 thì thấy: Khoảng tháng 8 năm 2018, Đoàn Văn T đến khu vực công ty may Hà Phong thuộc địa phận xã Đoan Bái, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang mua 26 bệ pháo có tổng khối lượng 38,1 kg của người không quen biết với giá 7.800.000 đồng rồi đem về nhà cất giấu để tìm cách bán kiếm lời. Sau đó, từ ngày 06/01/2019 đến 08/01/2019, tại cổng nhà Giáp Văn T3 ở thôn 6, xã V, huyện V, tỉnh B, T đã bán lại toàn bộ số pháo mua được trứớc đó cho Giáp Văn T3 làm 03 lần với tổng số tiền 10.920.000đồng để T3 bán lại cho người khác. Cụ thể: Ngày 06/01/2019 T bán cho T3 05 bệ với số tiền 2.100.000đồng, trong đó khối lượng của mỗi bệ thấp nhất là 1,4 kg, cao nhất là 1,6 kg). Ngày 07/01/2019, T bán cho T3 13 bệ với số tiền 5.460.000 đồng (trong đó khối lượng của mỗi bệ thấp nhất là 1,4 kg, cao nhất là 1,6 kg). Ngày 08/01/2019, T bán cho T3 tổng 08 bệ có tổng khối lượng 11,5 kg với số tiền 3.360.000 đồng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 08/01/2019, T3 mang 18 bệ pháo có tổng khối lượng 26,6 kg đi bán cho người khác nhưng chưa kịp bán thì bị Cơ quan điều tra bắt quả tang cùng toàn bộ vật chứng có liên quan.
Như vậy hành vi của bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm”.Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật hình sự.
Từ những nội dung trên án sơ thẩm xét xử bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 190 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai.
[4] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 thì thấy: Tại phiên tòa, các bị cáo chỉ có yêu cầu kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo nên các vấn đề khác của án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, HĐXX phúc thẩm không đặt ra giải quyết.
Xét về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Án sơ thẩm xác định các bị cáo T và T3 phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Án sơ thẩm xác định trong quá trình điều tra truy tố xét xử bị cáo T và T3 có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra bị cáo T sau khi phạm tội đã đầu thú và nộp lại toàn bộ tiền bán pháo mà có nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ.
Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 thì thấy: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về kinh tế, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Do đó, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng pháp luật hình sự và có hình phạt tù tương xứng đối với các bị cáo. Căn cứ vào về tính chất mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, án sơ thẩm xử phạt bị cáo T 20 tháng tù, bị cáo T3 24 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội, không nặng đối với các bị cáo.
Tại quá trình xét xử phúc thẩm các bị cáo không xuất trình thêm được tài liệu chứng cứ mới để xem xét đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo được, do vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo cần giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ.
[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng của bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 không được chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
[6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1]. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 4 Điều 190; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Đoàn Văn T 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ bị cáo từ ngày 10/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Phạt tiền: 20.000.000 đồng.
Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 4 Điều 190; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Giáp Văn T3 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án nhưng được trừ đi số ngày tạm giữ bị cáo từ ngày 09/01/2019 đến ngày 14/01/2019. Phạt tiền: 20.000.000 đồng. [2]. Án phí hình sự phúc thẩm:
Bị cáo Đoàn Văn T và bị cáo Giáp Văn T3 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 18/2020/HS-PT ngày 17/02/2020 về tội buôn bán hàng cấm
Số hiệu: | 18/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về