TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kỳ Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 04/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2020 về “Tranh chấp hôn nhân và gia đình”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vi Thị M, sinh năm 1982.
Nơi cư trú: Bản X, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Có mặt.
- Bị đơn: Anh Vi Văn O, sinh năm 1982.
Nơi cư trú: Bản X, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Vi Thị M trình bày:
Về quan hệ tình cảm: Chị và anh Vi Văn O lấy nhau năm 1999, đến ngày 12/12/2004 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian đầu, về sau thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách, lối sống, quan điểm hai người không hợp nhau, không quan tâm, chăm sóc nhau, anh O lâm vào cảnh nghiện hút ma túy mặc dù chị đã nhiều lần tha thứ bỏ qua và hai bên gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng anh O không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2016. Nay chị không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Vi Văn O.
Về con chung: Chị và anh Vi Văn O có 02 con chung là cháu Vi Trung T, sinh ngày 28/02/1999 và cháu Vi Văn C, sinh ngày 21/03/2006. Nếu ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là cháu Vi Văn C cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh O cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với cháu Vi Trung T đã trưởng thành và lập gia đình riêng nên tùy theo nguyện vọng của cháu.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa: Sau khi thụ lý đơn khởi kiện, thông báo thụ lý vụ án, qua xác minh anh Vi Văn O thường xuyên vắng mặt tại địa phương, đi đâu và làm gì không ai biết, anh O cũng không khai báo với chính quyền địa phương về việc thay đổi nơi cư trú, Tòa án đã tiến hành niêm yết công khai tại Ủy ban nhân dân xã C và tại Bản X, xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An là nơi cư trú cuối cùng của bị đơn. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh Vi Văn O vẫn vắng mặt mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nên Tòa án không thể tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định tại Điều 204; 207: 208 và Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền, xác định quan hệ tranh chấp; Trong quá trình điều tra thu thập chứng cứ Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc thu thập chứng cứ, tống đạt đảm bảo quyền của đương sự. Việc thuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự từ Điều 139 đến Điều 260 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của Thư ký phiên tòa được thực hiện đúng quy định tại Điều 51 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của đương sự: Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại Điều 70,72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:
Về hôn nhân: Cho chị Vi Thị M và anh Vi Văn O được ly hôn:
Về con chung: Giao con chung là cháu Vi Văn C, sinh ngày 21/03/2006 cho chị Vi Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh Vi Văn O do chị M không yêu cầu. Đối với con chung là cháu Vi Trung T, sinh ngày 28/02/1999 đã đủ tuổi trưởng thành và lập gia đình riêng nên không xem xét.
Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.
Về án phí: Chị Vi Thị M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Chị Vi Thị M yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Vi Văn O có địa chỉ cư trú tại xã C, huyện K, tỉnh Nghệ An. Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kỳ Sơn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ kiện Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quyết định của Tòa án. Bị đơn thường xuyên vắng mặt tại địa phương, không chấp hành các quyết định của Tòa án, gây khó khăn cho công tác điều tra, thu thập chứng cứ. Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt cho đương sự hợp lệ, nhiều lần nhưng tại phiên tòa hôm nay bị đơn vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vi Thị M và anh Vi Văn O tự nguyện kết hôn sau một thời gian tìm hiểu, kết hôn đúng điều kiện, nơi đăng ký kết hôn là tại UBND xã C, huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An nên đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được một thời gian thì giữa hai người có phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình, lối sống, quan điểm hai người không hợp nhau. Anh O nghiện ma túy nên từ đó tình cảm vợ chồng rạn nứt mặc dù chị M đã tha thứ nhiều lần nhưng anh O không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân nhau từ năm 2016. Xét thấy, hôn nhân của chị M và anh O đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cho chị Vi Thị M được ly hôn với anh Vi Văn O.
[4] Về con chung: Chị Vi Thị M và anh Vi Văn O có 02 con chung là cháu Vi Trung T, sinh ngày 28/02/1999 và cháu Vi Văn C, sinh ngày 21/03/2006. Hiện nay cả hai cháu đều đang ở với chị M, anh O thường xuyên vắng mặt tại địa phương. Đồng thời nguyện vọng của cháu Vi Văn C cũng muốn ở với chị M nên cần giao con chung cho chị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ tuổi trưởng thành (đủ 18 tổi) là phù hợp, đúng quy định, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con. Đối với cháu Vi Trung T đã trưởng thành và lập gia đình riêng nên không Hội đồng xét xử không xem xét. Sau ly hôn, anh O có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, thăm nom con chung không ai được cản trở.
Đối với yêu cầu cấp dưỡng nuôi con: Do chị M không yêu cầu nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng đối với anh Vi Văn O. Trường hợp chị M nuôi con không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh O có căn cứ chứng minh thì có quyền làm đơn thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn. Trường hợp anh O lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh O.
[5] Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Vi Thị M không yêu cầu Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Các đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.
[7] Về án phí: Nguyên đơn chị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự:
Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình:
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vi Thị M.
1. Về hôn nhân: Cho chị Vi Thị M được ly hôn với anh Vi Văn O.
2. Về con chung: Giao con chung là cháu Vi Văn C, sinh ngày 21/03/2006 cho chị Vi Thị M được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ 18 tuổi, trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh Vi Văn O do chị M không yêu cầu. Anh O có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, thăm nom con chung không ai được cản trở. Trường hợp chị M là người trực tiếp nuôi con chung không đảm bảo quyền, lợi ích của con mà anh O có căn cứ chứng minh thì anh O có quyền yêu cầu Tòa án xem xét, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Trường hợp anh O lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh O.
3. Về án phí: Chị Vi Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0003878 ngày 09/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. (Chị M đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm).
4. Về quyền kháng cáo: Chị Vi Thị M có quyền kháng cáo đến Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Anh Vi Văn O vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 30/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 18/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kỳ Sơn - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về