TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỘC, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 18/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ LY HÔN
Trong ngày 26 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2020 về việc "Ly hôn", theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2020/QĐST – HNGĐ ngày 11/11/2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Th - Sinh năm: 1967.
Trú quán: Thôn 8, làng S, xã Th, huyện V, tỉnh T.
Có mặt tại phiên tòa.
2. Bị đơn: Bà Trần Thị S – Sinh năm 1972 Trú quán: Thôn 8, làng S, xã Th, huyện V, tỉnh T.
Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 6 năm 2020, bản tự khai ngày 30/7/2020 và quá trình làm việc tại Tòa án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn Th trình bày:
- Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị S kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th, huyện V, tỉnh T vào ngày 25/5/1990. Trong quá trình chung sống vợ chồng chỉ hạnh phúc, hòa thuận được một thời gian thì đến năm 2013 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống cũng như trong công việc làm ăn dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Đến tháng 9/2013 vợ chồng đã sống ly thân nhau và bà S đã làm đơn khởi kiện xin ly hôn ông Th. Tại bản án số 54/2014/HNGĐ – ST ngày 20/8/2014 của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc đã giải quyết cho bà S được ly hôn ông Th. Ông Th xét thấy mình không có những lỗi lầm như bà S đã nêu và vì thương con đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc trực tiếp của cả bố và mẹ nên ông Th đã làm đơn kháng cáo đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng ông được đoàn tụ nên tại bản án số 35/2014/HNGĐ – PT ngày 27/10/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã chấp nhận đơn kháng cáo của ông Th xử bác đơn ly hôn của bà S. Nhưng từ đó đến nay tình cảm vợ chồng ông Th, bà S vẫn không thể hàn gắn với nhau được, vợ chồng ông bà vẫn sống ly thân nhau, không ai quan tâm đến ai. Nay ông Nguyễn Văn Th xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc gia đình không có, vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm đến nhau nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông Th đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn bà Trần Thị S.
- Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Th – sinh năm 1991, Nguyễn Thị Th1 – sinh năm 1994 và Nguyễn Thị Th2 – sinh năm 1996. Hiện nay cả 03 con đều đã trưởng thành và tự lập được, nên ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về tài sản chung, công nợ chung: Vợ chồng đã tự thỏa thuận, nên ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn là bà Trần Thị S đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do, không nộp văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu chứng cứ kèm theo nên Tòa án không thu thập được nguyện vọng của bà Trần Thị S.
Tại Biên bản xác minh ngày 13/10/2020, Công an xã Th, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa nơi bà S đăng ký hộ khẩu thường trú cho biết: Bà Trần Thị S có hộ khẩu thường trú tại thôn 8, làng S, xã Th, huyện Vĩnh Lộc, hiện nay bà S đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương nhưng bà S vẫn thường xuyên về địa phương tại thôn 8, làng S, xã Th. Bà S không thuộc đối tượng phải khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật nên hiện nay công an xã Th cũng không biết được bà S đang làm gì, ở đâu. Tại biên bản xác minh ngày 13/10/2020 đối với thân nhân của bà S, ông Trần Đăng K là cháu ruột của bà S cho biết: Bà S có hộ khẩu thường trú tại thôn 8, làng S, xã Th, bà S hiện nay đang đi làm ăn xa không có mặt tại địa phương nhưng bà S vẫn thường xuyên đi và về sinh sống tại thôn 8, làng S, xã Th. Bà S và anh K vẫn thường xuyên liên lạc với nhau bằng điện thoại, chứ không gửi thư từ gì nên anh K cũng chỉ biết bà S đang làm ăn trong Miền Nam chứ địa chỉ cụ thể của bà S anh không biết. Tất cả các văn bản tố tụng Tòa án giao cho bà S anh đều ký nhận thay và ngay sau đó anh đã gọi điện thông báo và đọc lại cho bà S nghe nội dung. Anh K cũng đã góp ý để bà S về giải quyết ly hôn với ông Th cho xong vì thấy vợ chồng bà S, ông Th sống ly thân nhau đã lâu nhưng bà S đều nói là bận việc, dịch bệnh Covid và lũ lụt ở Miền Trung nên không về được.
Tại phiên tòa ông Nguyễn Văn Th vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn bà Trần Thị S.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa như sau:
- Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến phiên tòa hôm nay, thấy rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký Tòa án đã thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn của mình và tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã tuân theo đúng quy định của pháp luật, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do.
- Về nội dung: Qua nghiên cứu hồ sơ cũng như tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Văn Th, xử cho ông Th được ly hôn bà Trần Thị S.
-Về án phí: Ông Nguyễn Văn Th phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và trong quá trình giải quyết vụ án Hội đồng xét xử nhận định:
[1]Về tố tụng: Về quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách đương sự và thẩm quyền giải quyết vụ án: ông Nguyễn Văn Th có đơn khởi kiện về việc ly hôn đối với bà Trần Thị S có hộ khẩu thường trú tại xã Th, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định đây là vụ án: “ Ly hôn” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Bà Trần Thị S hiện không có mặt tại địa phương, không đến Tòa án làm việc. Kết quả xác minh tại Công an xã Th và thân nhân của bà S, bà S có hộ khẩu thường trú tại địa phương, bà S đi làm ăn ở Miền Nam, nhưng không có địa chỉ cụ thể, bà S vẫn thường xuyên về quê và ở tại thôn 8, làng S. Bà S đi không khai báo cho chính quyền địa phương biết. Căn cứ vào khoản 3 Điều 40 của Bộ luật dân sự, điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự thì được coi là cố tình giấu địa chỉ. Theo hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ – HĐTP, ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thì địa chỉ cuối cùng của bị đơn theo hộ khẩu thường trú là thôn 8, làng S, xã Th, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.
Bà Trần Thị S đã được tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Giấy triệu tập để trình bày ý kiến, các thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa theo đúng quy định của pháp luật nhưng vẫn cố tình vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Các thủ tục đã được tiến hành đảm bảo theo quy định tại khoản 5 điều 177 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bà S là đúng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Bị đơn không nộp văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng là vi phạm nghĩa vụ giao nộp chứng cứ và Tòa án thu thập để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị S kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Th, huyện V, tỉnh T vào ngày 25/5/1990. Xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị S là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm dẫn đến cãi vã lẫn nhau. Mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nhất từ khi bà Trần Thị S làm đơn xin ly hôn ông Th, từ đó hai người không ai quan tâm đến ai và vợ chồng đã sống ly thân nhau từ cuối năm 2013 đến nay. Ông Nguyễn Văn Th xét thấy đến nay tình cảm vợ chồng giữa ông và bà Trần Thị S không còn nữa nên đề nghị được giải quyết ly hôn với bà S. Quá trình giải quyết vụ án bà S đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng không đến Tòa án làm việc để trình bày quan điểm cũng như tham gia các phiên hòa giải, điều đó thể hiện bà S không quan tâm đến việc Tòa án đang giải quyết vụ án, không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng.
Hội đồng xét xử xét thấy: Cuộc sống hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị S đã thực sự tan vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho ông Nguyễn Văn Th được ly hôn bà Trần Thị S là phù hợp.
[3]Về con chung: Ông Nguyễn Văn Th và bà Trần Thị S có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Th – sinh năm 1991, Nguyễn Thị Th1 – sinh năm 1994 và Nguyễn Thị Th2 – sinh năm 1996. Hiện nay cả 03 con đều đã trưởng thành và tự lập được, nên ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Ông Nguyễn Văn Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Ông Nguyễn Văn Th phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, Điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 96, khoản 4 Điều 147, khoản 5 Điều 177, điểm e khoản 1 Điều 192, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 40 Bộ luật dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về hôn nhân: Xử cho ông Nguyễn Văn Th được ly hôn bà Trần Thị S.
2. Về án phí: Ông Nguyễn Văn Th phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng). Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0004674 ngày 09/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. (Ông Th đã nộp đủ tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm).
Ông Nguyễn Văn Th quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Trần Thị S có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 18/2020/HNGĐ-ST ngày 26/11/2020 về ly hôn
Số hiệu: | 18/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lộc - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về