Bản án 18/2019/HSST ngày 23/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 18/2019/HSST NGÀY 23/07/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 23 tháng 07 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 15/2019/HSST, ngày 27 tháng 05 năm 2019, theo quyết định đưa ra xét xử số18/2019/QĐXXST-HS, ngày 12/06/2019 và quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/HSST-QĐ, ngày 04/07/2019, đối với bị cáo:

Phạm Văn Ch; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 31/03/1998; Sinh trú quán: Thôn V, xã Cẩm B, huyện C, tỉnh Thanh Hóa; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường;Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; Trình độ học vấn: 11/12; Họ và tên bố: Phạm Văn T - Sinh năm: 1973; Họ và tên mẹ: Phạm Thị G; Sinh năm: 1975; Đều trú tại: Thôn V, xã Cẩm B, huyện C, tỉnh Thanh Hóa Gia đình có 02 (hai) anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; vợ, con: chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Nguyễn Tiến Đ – Sinh năm 1993

Trú tại: Thôn V, xã Cẩm B, huyện C, tỉnh Thanh Hóa.

Đ mới chấp hành án phạt tù xong ngày 11/07/2019. Vắng mặt tại phiên tòa, không có lý do.

Người làm chứng:

1. Anh: Phạm Văn D - Thôn V, xã Cẩm B, huyện C.

2. Anh: Phạm Văn T – Thôn V, xã Cẩm B, huyện C. Có mặt

3. Anh: Trịnh Quốc H - Thôn Bình hòa 5, xã Cẩm B, huyện C.

5. Anh: Lê Ngọc H1 – Thôn 1, xã Thạch L, huyện Th, Thanh Hóa.

6. Anh: Bùi Văn S – Thôn T, xã Ngọc S, huyện Ng

7. Anh: Trương Công – Thôn Kh, xã Cẩm Q huyện C. Có mặt

8. Bà: Phạm Thị G – Thôn V, xã Cẩm B, huyện C. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 22/04/2018, Phạm Văn D, cư trú tại Thôn V, xã Cẩm B, huyện C đến nhà Phạm Văn T, ở cùng thôn để chơi, khi đến nơi thì gặp Nguyễn Tiến Đ, cư trú tại thôn Bình H3, xã Cẩm B, huyện C cũng đang có mặt tại ở nhà T. Doanh và Đ chơi ở nhà T đến khoảng 19 giờ 05 phút cùng ngày thì có Trịnh Quốc H1, tại thôn Bình Hòa 5, xã Cẩm B, huyện C đi xe máy Exciter và Phạm Văn Ch cùng thôn với T cũng đến nhà T chơi. Tại đây, Đ mượn xe máy của H1 để đi ra quán cà phê Cây sữa thuộc thôn Tr, xã Cẩm B, huyện C thay quần áo H1, Ch bảo để Ch lấy xe máy của H1 chở Đ đi rồi Ch còn lấy xe đi chơi chỗ khác. Do không đồng ý nên giữa Đ và Ch có lời qua tiếng lại rồi xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, Đ liền trả chìa khóa xe máy cho H1 còn Ch vì bực tức với Đ nên đi bộ ra khỏi nhà T và quay trở về nhà mình lấy một kiếm tự chế (dài khoảng 01m, có cán cầm bằng ống tuýp sắt màu đen, lưỡi nhọn và sắc rộng khoảng 05cm, màu trắng), được giấu từ dưới bếp rồi chạy sang nhà T chờ sẵn ngoài cổng đợi Đ để đánh. Tại nhà T, Đ lại mượn xe máy của H1 đi, khi Đ điều khiển xe máy ra đến đường bê tông trước nhà T thì bị Ch chạy đến dùng kiếm tự chế cầm bằng hai tay chém ba nhát theo chiều từ trên xuống, từ phải qua trái vào phần vai bên phải, vùng thắt lưng và phần khuỷu tay của Đ. Khi Ch chém, Đ có la lên rất to vì bị đau rồi chửi Ch và tăng ga xe máy bỏ chạy ra quán Cây Sữa nhờ sự giúp đỡ thì được chị Lê Ngọc H, cư trú tại thôn 1, xã Thạch L, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa là chủ quán Cây Sữa cùng với Bùi Văn S, thôn T, xã Ngọc S, huyện Ng, tỉnh Thanh Hóa và Trương Công B, thôn Kh, xã Cẩm Q, huyện C là nhân viên quán Cây Sữa sơ cứu, cầm máu vết thương tạm thời, sau đó, S và B chở Đ xuống Bệnh viện đa khoa huyện C để điều trị. Trong lúc nghe tiếng kêu “á” và tiếng rồ ga xe máy của Đ ở ngoài đường thì Doanh và H1 từ trong nhà chạy ra ngoài xem thì phát hiện thấy người dùng kiếm tự chế chém Đ là Ch. Sau khi chém Nguyễn Tiến Đ xong, Phạm Văn Ch cầm kiếm tự chế đi về qua nhà Phạm Văn T thì có Phạm Văn Doanh, Trương Quốc H1 và Phạm Văn T nhìn thấy, rồi Ch cầm kiếm tự chế ném qua hàng rào gạch vồ vào vườn nhà bà Trần Thị H (đối diện với nhà T) sau đó bỏ trốn vào Quận 2, thành phố Hồ Chí Minh.

Tại bản xem xét dấu vết thân thể hồi 16 giờ ngày 23/4/2018 của Bệnh viện đa khoa huyện C, tỉnh Thanh hóa đối với Nguyễn Tiến Đ có các dấu vết cụ thể sau: Tại mặt sau khuỷu tay trái có 01 (một) vết thương bờ sắc gọn, sâu sát xương, vết thương có kích thước (04 x 03) cm; Tại vai phải có 01 (một) vết thương rách da bờ sắc gọn, kích thước (09x 01) cm; Tại vùng thắt lưng có 01 (một) vết thương rách da bờ sắc gọn, kích thước (07 x 01) cm.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích Số 310/2018/TTPY ngày 18/5/2018 Trung T pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận: Hiện tại tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 31% (Ba mươi mốt phần trăm). Cụ thể các vết thương như sau: Tại mặt sau khuỷu tay trái có 01 (một) vết thương bờ sắc gọn, sâu sát xương, vết thương có kích thước (04 x 03) cm, do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc; Tại vai phải có 01 (một) vết thương rách da bờ sắc gọn, kích thước (09 x 01) cm, do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc; Tại vùng thắt lưng có 01 (một) vết thương rách da bờ sắc gọn, kích thước (07 x 01) cm, do tác động của ngoại lực, tạo nên bởi vật có cạnh sắc.

Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung về cơ chế hình thành thương tích Số 311/2018/TTPY ngày 18/5/2018 Trung Tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận cơ chế hình thành thương tích:

+ Tổn thương do vật sắc: Vật sắc là những vật có cạnh sắc, lưỡi sắc, các vật như lưỡi dao cạo, dao nhà bếp, cạnh sắc của mảnh kính thủy tinh có tác dụng của vật sắc. Đặc điểm chung của tổn thương do vật sắc là thành vết thương bằng phẳng, sắc nhọn, đáy vết thương có độ sâu không giống nhau, sâu nhất ở đầu vào của vết thương hay ở giữa vết thương. Chiều dài vết thương lớn hơn chiều rộng và chiều sâu của nó. Các đầu vết thương nhọn, bờ mép sắc gọn bằng phẳng.

Quá trình điều tra xác minh, Phạm Văn Ch đã bỏ trốn khỏi địa phương, còn vật chứng gây thương tích cho Nguyễn Tiến Đ thì chưa phát hiện và thu giữ được. Ngày 04/10/2018, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra Quyết định Tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, Tạm đình chỉ điều tra bị can đối với Phạm Văn Ch, ra quyết định truy nã Phạm Văn Ch. Đến ngày 12/4/2019, Phạm Văn Ch đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện C xin đầu thú đồng thời khai nhận toàn bộ nội dung sự việc phạm tội của mình gây ra đối với Nguyễn Tiến Đ vào ngày 22/04/2018 tại Thôn V, Cẩm Bình, Cẩm Thủy, Thanh Hóa.

Ngày 16/4/2019 Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành truy tìm vật chứng là 01 (Một) thanh kiếm tự chế có cán làm bằng ống tuýp sắt màu đen, lưỡi sắc và nhọn màu trắng, chiều rộng khoảng 5cm, chiều dài khoảng 1m theo lời khai của Phạm Văn Ch sau khi sử dụng để gây thương tích cho anh Nguyễn Tiến Đ ngày 22/4/2018 tại Thôn V, xã Cẩm B, huyện C, Ch đã ném vào vườn nhà bà Trần Thị Huê ở Thôn V, xã Cẩm B, huyện C. Tuy nhiên quá trình truy tìm không phát hiện thấy vật chứng có đặc điểm như trên.

Về vật chứng: 01 (Một) thanh kiếm tự chế có cán làm bằng ống tuýp sắt màu đen, lưỡi sắc và nhọn màu trắng, chiều rộng khoảng 5cm, chiều dài khoảng 1m Không thu được.

Về phần dân sự: Nguyễn Tiến Đ yêu cầu Phạm Văn Ch bồi thường 29.210.000đ (Hai mươi chín triệu hai trăm mười nghìn đồng) là số tiền chi phí điều trị và bồi thường tổn hại sức khỏe của Nguyễn Tiến Đ. Ngày 19/07/2019 hai bên gia đình cùng với Đ đã thỏa thuận về phần bồi thường Dân sự về tiền thuốc, chi phí khác và tổn hại sức khỏe do bị cáo gây ra là 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) đã bồi thường được 10.000.000đ, còn 10.000.000đ trả vào ngày 28/12/2019 (âm lịch) tức ngày 22/01/2020.

Tại bản cáo trạng số 16/2019- CT-VKSCT-TA, ngày 24/05/2019 của VKSND huyện C đã truy tố bị cáo Ch về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 3 Điều 134 - BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Văn Ch thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trong bản cáo trạng là đúng. Nay bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai, bị cáo và Đ là bạn với nhau, hai bên lời qua tiếng lại sau đó không kìm chế được bản thân nên bị cáo đã dùng thanh kiếm tự chế có cán làm bằng ống tuýp sắt màu đen, lưỡi sắc và nhọn màu trắng, chiều rộng khoảng 5cm, chiều dài khoảng 1m chém Đ 03 nhát. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn vào Thành Phố Hồ Chí Minh, đến ngày 12/04/019 về đầu thú. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về phần bồi thường Dân sự, sau khí Đ chấp hành án xong về địa phương, ngày 19/07/2019 bị cáo đã nhờ mẹ (bà G) vay tiền thỏa thuận bồi thường cho Đ là 20.000.000đ, đã bồi thường được 10.000.000đ, còn lại 10.000.000đ trả vào ngày 28/12/2019 (âm lich).

Người bị hại vắng mặt, Đ có lời khai nhận phù hợp với các tình tiết nêu trong bản cáo trạng. Có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị G (mẹ bị cáo) trình bày, sự việc xảy ra bà không được chứng kiến, Sau khi phạm tội Ch bỏ trốn, đến tháng 4/2019 mới về đầu thú. Ngày 19/7/2019 bà và Đ cùng gia đình đã thỏa thuận bồi thường là 20.000.000đ, đã bồi thường được 10.000.000đ, còn lại 10.000.000đ trả vào ngày 28/12/2019 (âm lịch) số tiền này Ch nhờ bà vay mượn.

Lời khai của người làm chứng anh T, anh B tại phiên tòa trình bày: Anh T chỉ được chứng kiến Đ và Ch cải nhau khi mượn xe máy, anh B chỉ được chứng kiến và băng bó vết thương và đưa Đ đi bệnh viện Đa khoa huyện C cấp cứu. Người làm chứng vắng mặt, có lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại, bị cáo và nội dung bản cáo trạng.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38- BLHS. Đề nghị xử phạt bị cáo với mức án từ 06 đến 07 năm tù, bị cáo Về phần bồi thường: Hai bên đã có giấy tờ thỏa thuận bồi thường 20.000.000đ, Ch mới bồi thường được 10.000.000 đ, tại phiên tòa người bị hại vắng mặt nên đề nghị tách phần bồi thường để giải quyết bằng vụ án dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố. Trong quá trình điều tra bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì. Vì vậy, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đầy đủ và đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về sự vắng mặt của người bị hại và người làm chứng: Tại phiên tòa, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án. Vì trong quá trình điều tra, người bị hại, người làm chứng đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ, xét thấy cần thiết làm rõ hành vi của bị cáo sẽ được công bố tại phiên tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt người bị hại và người làm chứng.

[3] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Phạm Văn Ch đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Như vậy, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người làm chứng, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu có trong hồ sơ, đã có đủ cơ sở kết luận: Ngày 22/04/2018 tại đoạn đường bê tông trước nhà T, thuộc địa phận Thôn V, xã Cẩm B, huyện C bị cáo Phạm Văn Ch đã có hành vi dùng kiếm tự chế cầm bằng hai tay chém ba nhát theo chiều từ trên xuống, từ phải qua trái vào phần vai bên phải, vùng thắt lưng và phần khuỷu tay của anh Nguyễn Tiến Đ thôn Bình Hòa, xã Cẩm B, huyện C, gây tổn hại sức khỏe là 31%. Hành của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã phạm vào tội "Cố ý gây thương tích" được quy định tại khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt từ 05 đến 10 năm tù là tội phạm rất nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sức khỏe của người khác được Luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh tật tự địa phương, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân, do đó cần phải xử lý nghiêm minh để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng, chỉ vì một mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo đã dùng kiếm là hung khí nguy hiểm chém ba nhát vào phần vai bên phải, vùng thắt lưng và phần khuỷu tay của Đ gây tổn hại sức khỏe 31%. Xét cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành người công dân tốt cho xã hội.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bị cáo có nhân thân tốt, sau khi phạm tội bỏ trốn, nH1 sau đó đã ra đầu thú, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo. Các tình tiết trên được quy định tại các điểm b, s, khoản 1 và khoản Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Vì vậy, cần lên mức hình phạt đối với bị cáo 06 năm tù là thỏa đáng.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 19/07/2019 hai bên đã thỏa thuận bồi thường là 20.000.000đ, đã trả được 10.000.000đ. Tại phiên tòa người bị hại vắng mặt, phần bồi bồi thường đã thỏa thuận, Ch bồi thường chưa xong nên cần tách bồi thường ra bằng một vụ án Dân sự.

[7] Về vật chứng trong vụ án: Không thu được.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn Ch phạm tội "Cố ý gây thương tích'' .

Áp dụng: Khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 – Bộ luật hình sự; Điểm a, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn Ch 06 (Sáu năm) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/04/2019.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc thỏa thuận bồi thường giữa hai bên gày 19/07/2019 là 20.000.000đ, đã bồi thường được 10.000.0000đ. Còn lại chưa bồi thường xong, nên tách ra bằng một vụ án Dân sự.

Về án phí: Bị cáo Ch phải chịu 200.000đ án phí HSST Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

396
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HSST ngày 23/07/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:18/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Thủy - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về