Bản án 18/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2019/TLST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/QĐXXST-HS, ngày 01 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Nhữ Văn K, tên gọi khác: Không có, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1977 xã T, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; nơi cứ trú (đăng ký hộ khẩu thường trú): Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Ninh; trình độ văn hóa: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không theo tôn giáo nào; con ông: Nhữ Văn T và con bà Nguyễn Thị T (đã chết); có vợ: Vũ Thị H; con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Tốt. Bị cáo Nhữ Văn K bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30 tháng 8 năm 2019 đến ngày 01 tháng 10 năm 2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang bảo lĩnh.

- Bị hại: Bà Nông Thị P, sinh năm 1963, trú tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Hoàng Ngọc Đ, địa chỉ: thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 30 phút ngày 30 tháng 8 năm 2019 tổ Tuần tra Cảnh sát giao thông Công an huyện Đình Lập đang làm nhiệm vụ trên Quốc lộ X, tại khu vực KM 45 + 800 thuộc thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. Khi kiểm tra Nhữ Văn K đang điều khiển xe mô tô BKS: 12K9-7192 thì K không xuất trình được giấy tờ, Nhữ Văn K trình bày chiếc xe mô tô nói trên là do trộm cắp tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn với mục đích mang về quê bán lấy tiền tiêu sài.

Quá trình điều tra xác định được: Nhữ Văn K, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1977 hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Ninh làm thợ xây tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Khoảng 09 giờ ngày 30 tháng 8 năm 2019 K điều khiển xe mô tô BKS 99F6 - 2994 của K đi từ thôn N, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn đến nhà anh Lành Văn K, sinh năm 1978, trú tại thôn C, xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn với mục đích là vừa đi chơi vừa xem có ai có nhu cầu xây nhà thì nhận xây. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày K điều khiển xe quay lại hướng thôn C - B, sau đó K gửi xe máy của mình tại nhà của Hoàng Văn D, trú tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Gửi xe xong K gặp Nông Văn N nhà ở xã T, huyện L, tỉnh Lạng Sơn. K ngồi nhờ xe máy của N đi khoảng hơn 1km, trong lúc ngồi sau xe cùng Núi, K thấy có xe máy của người dân để cạnh đường không có người trông coi nên K nảy sinh ý định trộm cắp. K bảo N dừng xe để K xuống đi bộ, K đi bộ được một đoạn thì gặp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Dream không nhớ biển kiểm soát dựng ở cạnh đường không có ai trông coi, K lấy chìa khóa xe mô tô của mình để mở chiếc xe mô tô Dream nhưng không mở được nên K lại tiếp tục đi để tìm xe khác. Khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, tại địa phận thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn, K phát hiện một chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA wave RSX, biển kiểm soát 12K9 - 7192 do bà Nông Thị P, sinh năm 1963, trú tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn dựng ở cạnh đường để đi làm vườn, chìa khóa vẫn cắm ở ổ điện, lúc này bà P đang trồng rau ở dưới vườn cách đó khoảng 20m. Không thấy có người trông coi, K ngồi lên xe mô tô, mở khóa, khởi động xe, và phóng xe đi về hướng thôn B, sau đó đi theo Quốc lộ Y hướng B - thị trấn Đ, rồi đi tiếp ra hướng thành phố S với mục đích mang xe về quê để bán lấy tiền tiêu sài. Khi K đi đến KM 45 + 800 thuộc thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ tuần tra Cảnh sát giao thông Công an huyện Đình Lập kiểm tra, bắt giữ như đã nêu trên.

Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 30/KL-HĐĐGTS ngày 04 tháng 9 năm 2019 kết luận: Xe mô tô biển kiểm soát 12K9-7192, nhãn hiệu HONDA; số loại Wawe RSX; màu sơn: Đen - Trắng; số khung: RLHIC432XBY229192; số máy: JC43E6159181 trong vụ trộm cắp tài sản xảy ra ngày 30 tháng 8 năm 2019 tại thôn B, xã X, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn có giá trị 6.576.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 12K9 - 7192, nhãn hiệu: HONDA; Số loại WAWA RSX; Màu sơn: Đen - Trắng; Số khung: RLHIC432XBY229192; số máy: JC43E6159181 và 01 giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô Biển kiểm sát 12K9 - 7192; giấy chứng nhận đăng kí số: 001292 mang tên Hoàng Ngọc Đ, do Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Lạng Sơn cấp ngày 30 tháng 6 năm 2011. Ngày 12 tháng 9 năm 2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đình Lập đã trả lại chiếc xe mô tô tô trên cho chủ sở hữu.

01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, màn hình cảm ứng, Mode: OPPO F3. Số IMEI 1: 865251038974060, số IMEI 2: 865251038974062, trong máy có gắn 01 sim Vinaphone, điện thoại cũ đã qua sử dụng của Nhữ Văn K.

Về dân sự: Bị cáo Nhữ Văn K đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại. Vì thế ngày 25/9/2019 chị Vũ Thị H là vợ của Nhữ Văn K đã tự nguyện bồi thường toàn bộ tiền sửa chữa xe và tiền công đi lại cho người bị hại là 2.760.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 20/CT-VKSĐL, ngày 29 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nhữ Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Nhữ Văn K phạm tội "Trộm cắp tài sản". Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Nhữ Văn K từ 06 tháng đến 09 tháng tù cho hưởng án treo ấn định thời gian tử thách từ 12 đến 18 tháng; đề nghị tuyên trả chiếc điện thoại di động hiệu OPPO cho bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Đề nghị xác nhận bị cáo đã bồi thường cho bị hại 5.000.000 đồng.

Tại phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng tỏ ra ăn năn, hối cải và xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng, Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an huyện Đình Lập, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản khám xét, bắt người phạm tội quả tang; biên bản định giá tài sản trong tố tụng Hình sự và tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng chiều ngày 30 tháng 8 năm 2019 bị cáo Nhữ Văn K lợi dụng sự sơ hở của người dân để xe ven đường nên bị cáo đã có hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 12K9 - 7192, nhãn hiệu: HONDA; Số loại WAWA RSX; Màu sơn: Đen - Trắng; Số khung: RLHIC432XBY229192; số máy: JC43E6159181 và các giấy tờ liên quan. Kết quả định giá, chiếc xe có trị giá là 6.576.000 (sáu triệu năm trăm bẩy mươi sáu nghìn) đồng. Như vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nhữ Văn K đã có hành vi trộm cắp tài sản, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm về tài sản của người khác một cách bất hợp pháp, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng do hãm lời nên vẫn cố ý thực hiện hành vi chiếm đoạt. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng khung hình phạt.

[4] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự, chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo thành K khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã trả lại cho chủ sở hữu và đã trả trả tiền công đi tìm xe cho người bị hại được 5.000.000 đồng (được coi là chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, h, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hơn nữa bị cáo có bố là ông Nhữ Văn T được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhưng vẫn bảo đảm tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo, sớm trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Xác nhận: Chị Vũ Thị H là vợ của Nhữ Văn K đã tự nguyện bồi thường toàn bộ tiền sửa chữa xe và tiền công đi lại cho người bị hại là bà Nông Thị P 5.000.000 đồng.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo biên bản xác minh của Cơ quan Điều tra tại nơi bị cáo cư trú thì bị cáo không có tài sản thuộc sở hữu cá nhân, thu nhập thấp (BL 48, 49) nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì không có tính khả thi.

[8] Về vật chứng: Hội đồng xét xử xác nhận ngày 12 tháng 9 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đình Lập đã trả lại 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 12K9 - 7192, nhãn hiệu: HONDA; Số loại WAWA RSX; Màu sơn: Đen - Trắng; Số khung: RLHIC432XBY229192; số máy: JC43E6159181 và 01 giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô Biển kiểm sát 12K9 - 7192; giấy chứng nhận đăng kí số: 001292 cho ông Hoàng Ngọc Đ.

Trả lại bị cáo Nhữ Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, màn hình cảm ứng, Mode: OPPO F3. Số IMEI 1: 865251038974060, số IMEI 2: 865251038974062, trong máy có gắn 01 sim Vinaphone, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Về án phí: Do bị cáo bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước theo quy định tại các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nhữ Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nhữ Văn K 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám tháng) tính từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Uỷ ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền đia phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự. “Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận chị Vũ Thị H là vợ của Nhữ Văn K đã tự nguyện bồi thường toàn bộ tiền sửa chữa xe và tiền công đi lại cho người bị hại bà Nông Thị P 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Về vật chứng: Áp dụng khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xác nhận ngày 12 tháng 9 năm 2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đình Lập đã trả lại 01 (một) chiếc xe mô tô biển kiểm soát: 12K9 - 7192, nhãn hiệu: HONDA; Số loại WAWA RSX; Màu sơn: Đen - Trắng; Số khung: RLHIC432XBY229192; số máy: JC43E6159181 và 01 giấy chứng nhận đăng kí xe mô tô Biển kiểm sát 12K9 - 7192; giấy chứng nhận đăng kí số: 001292 cho ông Hoàng Ngọc Đ.

Trả lại bị cáo Nhữ Văn K 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng, màn hình cảm ứng, Mode: OPPO F3. Số IMEI 1: 865251038974060, số IMEI 2: 865251038974062, trong máy có gắn 01 sim Vinaphone, điện thoại cũ đã qua sử dụng 3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nhữ Văn K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp Ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Áp dụng các điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đình Lập - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về