TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 18/2019/DS-ST NGÀY 01/07/2019 VỀ TRANH CHẤP ĐÒI BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TÍNH MẠNG BỊ XÂM PHẠM
Trong các ngày 24/6 và 01/7/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, mở phiên Tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 169/2018/TLST-DS ngày 17 tháng 12 năm 2018 về việc tranh chấp “Đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXX-ST ngày 04 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Võ Thị Hường E, sinh năm 1983
Địa chỉ: ấp L, xã Đ, thị xã L, tỉnh T.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Võ Thị Hường E:
Chị Võ Thị M, sinh năm 1986
Địa chỉ: ấp L, xã Đ, thị xã L, tỉnh T.
Văn bản ủy quyền số 0211 ngày 10/9/2018 tại Văn phòng công chứng T, tỉnh T)
2. Bị đơn: Anh Phan Thanh P, sinh năm 1991.
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh T.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Phan Thanh P: Ông Phan Thanh T, sinh năm 1965
Địa chỉ: ấp M, xã M, huyện T, tỉnh T.
Văn bản ủy quyền số 58 ngày 15/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện T,
+ Chị M và ông T có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Tại đơn khởi kiện ngày 11/12/2018 nguyên đơn bà Võ Thị Hường E trình bày: Tôi là mẹ ruột của Võ Hoàng X, sinh năm 1990, trú tại ấp L, xã Đ, thị xã L, tỉnh T. Vào đêm 02/02/2018 con tôi Võ Hoàng X điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B2-xx lưu thông trên Tỉnh lộ 865, khi đến khu vực ấp M, xã M, huyện T, tỉnh T thì bị anh Phan Thanh P điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B8-xxx gây tai nạn, làm con tôi bị thương, được đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh T cấp cứu, điều trị, đến ngày 05/02/2018 con tôi Võ Hoàng X chết.
Sau khi sự việc xảy ra Công an huyện T có tiếp nhận điều tra, đến ngày 08/6/2018 Công an huyện T ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, do nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là lỗi hai bên khi tham gia giao thông. Gia đình tôi phải lo chi phí điều trị, mai táng cho con tôi với số tiền tổng cộng là 119.218.455 đồng, gia đình Phan Thanh P đã đưa trước số tiền là 50.000.000đồng.
Nay tôi yêu cầu Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho tôi số tiền là 119.218.455đồng và 50.000.000đồng tiến tổn thất tinh thần.
- Tại bản tự khai ngày 25/12/2018 bị đơn anh Phan Thanh P trình bày: Bà Võ Thị Hường E khởi kiện yêu cầu tôi bồi thường tiếp 119.218.455đồng và 50.000.000 đồng tiền tổn thất tinh thần, tôi không đồng ý bởi các lý do sau:
Thứ nhất: Cơ quan Cảnh sát giao thông Công an huyện T xác định Võ Hoàng X là người có lỗi và không đủ căn cứ xác định hậu quả việc X chết trực tiếp do cá nhân nào gây ra.
Thứ hai: Việc nằm trên lộ gây cản trở giao thông đường bộ của Võ Hoàng X dẫn đến hậu quả tôi bị thương tích gồm gãy đầu ngoài xương đoàn phải, gãy xương sườn 4 bên phải, tỷ lệ tổn thương cơ thể của tôi là 28%. Ngoài ra xe của tôi cũng bị hư hỏng, chưa yêu cầu bồi thường.
Thứ ba: Qua vụ việc bản thân tôi thấy thiệt hại ít hơn nên đã hỗ trợ bồi thường cho gia đình X số tiền là 50.000.000đồng.
- Ngày 06/3/2019 bị đơn anh Phan Thanh P có đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt.
* Tai phiên toa hôm nay:
- Chị Võ Thị M là đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E yêu cầu: Buộc anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà E số tiền là 137.218.455đồng gồm:
Tiền xe cứu thương 1.600.000đồng.
Tiền sơ cứu tại bệnh viện T 123.455đồng.
Tiền chân đèn, hình thờ, ghế, rạp, trại 3.820.000đồng. Tiền chi phí mai táng (hòm, nhan, đèn) 72.425.000đồng.
Tiền mồ mã 19.250.000đồng Tiền tổn thất tinh thần 40.000.000đồng.
Yêu cầu bồi thường một lần khi án có hiệu lực pháp luật.
- Ông Phan Thanh T là đại diện ủy quyền của bị đơn anh Phan Thanh P chỉ đồng ý bồi thường tiếp cho bà E số tiền là 20.000.000đồng, khi án có hiệu lực pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu xác định Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E, sau khi xem xét lại các chi phí hợp lý thì số tiền thiệt hại của anh Võ Hoàng X sẽ chia đôi và buộc anh Phan Thanh P có trách nhiệm bồi thường 1/2 thiệt hại, vì trong vụ án này lỗi xảy ra tai nạn là lỗi hỗn hợp cả hai anh P và anh X cùng có lỗi. Các chi phí thiệt hại hợp lý của Võ Hoàng X sau khi tạm tính và chia đôi thiệt hại thì cũng tương ứng với số tiền mà phía anh P đã bồi thường trước đó là 55.000.000đồng. Vì vậy cần ghi nhận ông Phan Thanh T là đại diện ủy quyền của bị đơn anh Phan Thanh P đồng ý bồi thường tiếp cho bà E số tiền là 20.000.000đồng, khi án có hiệu lực pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Hội đồng xét thấy theo đơn khởi kiện và yêu cầu của bà Võ Thị Hường E tại phiên tòa, thì bà Võ Thị Hường E yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Tân Phước giải quyết buộc anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà số tiền là 137.218.455đồng. Xét thấy bị đơn anh Phan Thanh P đang cư trú tại tại ấp M, xã M, huyện T, tỉnh T. Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước theo qui định tại Điều 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự và quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp “Đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm” qui định tại Khoản 6 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại Đơn khởi kiện, Tơ tự khai ngay cùng ngày 11/12/2018 nguyên đơn bà Võ Thị Hường E khởi kiện yêu cầu anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà số tiền thiệt hại tính mạng là 119.218.455 đồng và 50.000.000 đồng tiến tổn thất tinh thần. Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay chị Võ Thị M là đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E yêu cầu: Buộc anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà E số tiền là 137.218.455 đồng gồm: Tiền xe cứu thương 1.600.000 đồng; Tiền sơ cứu tại bệnh viện T 123.455 đồng; Tiền chân đèn, hình thờ, ghế, rạp, trại 3.820.000 đồng; Tiền chi phí mai táng (hòm, nhan, đèn) 72.425.000 đồng; Tiền mồ mã 19.250.000 đồng; Tiền tổn thất tinh thần 40.000.000đồng. Do đó Hội đồng xét xử xác định nguyên đơn bà Võ Thị Hường E đã thay đổi yêu cầu khởi kiện. Hội đồng xét xử xét thấy việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E là không vượt quá phạm vi khởi kiện, yêu cầu ban đầu theo qui định tại điều 5 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E và tiếp tục việc giải quyết vụ án.
[2] Về nội dung: Vào khoảng 00 giờ 15 phút ngày 02/02/2018 anh Võ Hoàng X điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B2-xx lưu thông trên Tỉnh lộ 865 theo hướng từ Đông sang Tây. Khi đến cách trụ điện số 24 về hướng Tây 13,4m thuộc khu vực ấp M, xã M, huyện T, tỉnh T thì dừng xe lại, dựng xe trên phần đường phía Nam, đầu xe quay về hướng Tây, Võ Hoàng X nằm ngữa trên lộ, đầu quay về hướng Đông Bắc, chân hướng Tây Nam. Lúc này anh Phan Thanh P điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 63B8-xxx lưu thông trên Tỉnh lộ 865 hướng từ Tây sang Đông chạy ngang cán lên vùng ngực và bụng của Võ Hoàng X, xe 63B8-xxx của P ngã nghiêng bên trái, trượt một đoạn dài 11,63m, xe và P ngã trên lộ. Võ Hoàng X được đưa đi cấp cứu điều trị. Đến ngày 05/02/2018 Võ Hoàng X chết tại Bệnh viện Đa khoa trung tâm tỉnh T. Phan Thanh P điều trị đến ngày 12/02/2018 thì xuất viện.
Sau khi sự việc xảy ra Công an huyện T có tiếp nhận điều tra, đến ngày 08/6/2018 Công an huyện T ra Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, do nguyên nhân dẫn đến tai nạn giao thông là lỗi hai bên khi tham gia giao thông. Gia đình Phan Thanh P đã đưa trước cho gia đình Võ Hoàng X số tiền là 55.000.000đồng. Nay bà Võ Thị Hường E yêu cầu anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà số tiền là 137.218.455đồng.
[2.1] Tại phiên tòa, chị Võ Thị M là đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E yêu cầu: Buộc anh Phan Thanh P phải bồi thường tiếp thêm cho bà E số tiền là 137.218.455đồng gồm: Tiền xe cứu thương 1.600.000đồng; Tiền sơ cứu tại bệnh viện T 123.455đồng; Tiền chân đèn, hình thờ, ghế, rạp, trại 3.820.000đồng; Tiền chi phí mai táng (hòm, nhan, đèn) 72.425.000đồng; Tiền mồ mã 19.250.000đồng; Tiền tổn thất tinh thần 40.000.000đồng..
Xét yêu cầu của chị Võ Thị M là đại diện ủy quyền của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E thì thấy rằng việc yêu cầu của nguyên đơn là chỉ có cơ sở chấp nhận một phần bởi lẽ các khoản tiền thiệt hại nguyên đơn yêu cầu là cao, chưa phù hợp với thiệt hại thực tế, nên Hội đồng xét xử xác định lại như sau:
Tiền xe cứu thương 1.600.000đồng là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tiền sơ cứu tại bệnh viện T 123.455đồng là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tiền chân đèn, hình thờ, ghế, rạp, trại 3.820.000đồng là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Tiền chi phí mai táng (hòm, nhan, đèn) 72.425.000đồng: Xét thấy theo hóa đơn chi phí mai táng do nguyên đơn cung cấp (BL số 11) thì trong số tiền 72.425.000đồng này có các khoản chưa phù hợp như: 04 xuất kèn tây 7.800.000đồng, đạo tý pháo hoàng (hát, đánh võ đưa đám) 4.500.000đồng. Vì vậy hai khoản này Hội đồng xét xử không chấp nhận. Ngoài ra còn có tiền hòm 50.000.000đồng, Hội đồng xét xử xét thấy tiền hòm 50.000.000đồng là quá cao, không phù hợp thực tế, thông lệ ở địa phương nên cần điều chỉnh lại ở mức 30.000.000đồng là phù hợp. Như vậy khoản tiền này tổng cộng được Hội đồng xét xử chấp nhận là 40.125.000đồng.
Tiền mồ mã 19.250.000đồng: Theo quy định tại tiểu mục 2.2, mục 2, phần 2 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quy định không chấp nhận yêu cầu bồi thường xây mộ, bốc mộ...Tuy nhiên Hội đồng xét xử xét thấy thực tế theo thông lệ, tập quán địa phương, bảo vệ môi trường thì khi chôn cất xong thì có làm mộ (xây mộ) và gia đình anh X thực tế cũng có xây mộ, nên Hội đồng xét xử xét thấy cũng cần thiết chấp nhận cho nguyên đơn một phần tiền xây mộ theo thông lệ địa phương là phù hợp. Xét thấy nguyên đơn yêu cầu tiền xây mộ 19.250.000đồng, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần, trong đó số tiền gạch ván mộ 3.250.000đồng không được chấp nhận vì chỉ tính một xây, tô thông thường; tiền công thợ xây mộ 7.000.000đồng là cao, Hội đồng xét xử chấp nhận 4.000.000đồng. Như vậy khoản tiền này tổng cộng được Hội đồng xét xử chấp nhận là 13.000.000đồng.
Tiền tổn thất tinh thần 40.000.000đồng là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.
Như vậy tổng thiệt hại của Võ Hoàng X được xác định với số tiền là: 98.668.455 đồng.
[2.2] Về mức độ lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Theo biên bản khám nghiệm hiện trường (BL 147, 148), sơ đồ hiện trường vụ tai nạn giao thông (Bl 149, 150), Thông báo kết quả nguồn tin về tội phạm (BL số 19) và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự tại phiên toàn. Hội đồng xét xử xét thấy:
Nguyên nhân xảy ra tai nạn là do Võ Hoàng X có nồng độ cồn trong máu 667mg/dl máu, dựng xe 63B2-xx và nằm trên lộ gây cản trở giao thông, đã vi phạm khoản 8, điều 8 và điểm i, khoản 2, điều 35 của Luật giao thông đường bộ. Phan Thanh P điều khiển xe 63B8-xxx tại thời điểm xảy ra tai nạn đã lái xe thiếu chú ý quan sát, đã vi phạm điểm b, khoản 7, điều 6 của Luật giao thông đường bộ. Trên đoạn đường xảy ra tai nạn không có lắp biển hiệu giao thông đường bộ, tai nạn xảy ra vào thời điểm tối, tầm nhìn bị hạn chế. Do đó hậu quả xảy ra là do lỗi hỗn hợp cả hai bên khi tham gia giao thông, không đủ căn cứ để xác định hậu quả trực tiếp do cá nhân nào gây ra. Vì vậy thiệt hại xảy ra cả hai bên cùng phải tự gánh chịu một phần thiệt hại.
Hội đồng xét xử xét thấy tổng thiệt hại của Võ Hoàng X được xác định với số tiền là: 98.668.455 đồng. Võ Hoàng X cũng có lỗi nên tự mình phải gánh chịu một phần thiệt hại là 50% số tiền thiệt hại là phù hợp, tương ứng với số tiền thiệt hại là 49.334.227 đồng. Như vậy Phan Thanh P chỉ có trách nhiệm bồi thường cho Võ Hoàng X 50% số tiền giá trị thiệt hại tương ứng với số tiền là 49.334.227 đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy sau khi sự việc xảy ra gia đình Phan Thanh P đã đưa trước cho gia đình Võ Hoàng X số tiền là 55.000.000đồng. Như vậy số tiền anh Phan Thanh P đã bồi thường cho Võ Hoàng X là vượt hơn số tiền 49.334.227 đồng mà anh P phải có nghĩa vụ bồi thường. Vì vậy anh P không phải có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho nguyên đơn thêm số tiền nào khác.
Tuy nhiên tại phiên tòa hôm nay ông Phan Thanh T là đại diện ủy quyền của bị đơn anh Phan Thanh P đồng ý bồi thường tiếp cho bà E số tiền là 20.000.000đồng là trên cơ sở tự nguyện, có lợi cho nguyên đơn, phù hợp với điều 591 của Bộ luật dân sự, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[3] Về thời gian trả: Tại phiên Tòa hôm nay ông Phan Thanh T là đại diện ủy quyền của bị đơn anh Phan Thanh P đồng ý bồi thường tiếp cho bà E số tiền là 20.000.000đồng, khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[4] Về an phi: Nguyên đơn không phải chịu án phí do một phần yêu cầu không được chấp nhận. Bị đơn không phải thực hiện nghĩa vụ bồi thường tiếp nên không phai chiu an phi dân sự sơ thẩm theo quy đinh tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
[5] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có ghi nhận khi nghị án.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 588, 591, điều 357, 468 của Bộ luật dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Hường E.
- Ghi nhận anh Phan Thanh P tự nguyện bồi thường tiếp cho nguyên đơn bà Võ Thị Hường E số tiền là 20.000.000đồng. Thực hiện nghĩa vụ giao trả tiền một lần, ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
Kể từ ngày nguyên đơn bà Võ Thị Hường E có đơn yêu cầu thi hành án, cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng anh Phan Thanh P chậm trả tiền thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại 357, điều 468 của Bộ luật dân sự, tại thời điểm thanh toán.
2. Về án phí:
- Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho nguyên đơn bà Võ Thị Hường E. Bị đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Án tuyên vào lúc 15 giờ 15 phút ngày 01/7/2019 có mặt chị M và ông T.
3. Về quyền kháng cáo:
- Các đương sự được thực hiện quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì các đương sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 18/2019/DS-ST ngày 01/07/2019 về tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm
Số hiệu: | 18/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 01/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về