Bản án 18/2018/HSST ngày 18/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 18/2018/HSST NGÀY 18/01/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18/01/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 96/2017/HSST ngày 29/12/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Xuân S - Sinh năm 1972; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: đường L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: lao động tự do; văn hóa: 07/10; con ông Nguyễn Xuân B (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; vợ Bùi Thị L, có 03 con: lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: không. Tạm giữ ngày 31/10/2017, tạm giam ngày 09/11/2017. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN
 
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
 
Khoảng 09h30’ ngày 31/10/2017, tổ công tác phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ ở khu vực đường đường L, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa thì phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Xuân Sđang bán trái phép 01 gói ma túy cho 02 đối tượng là Lê Bá Đ và Bùi Quang T lấy 200.000đ. Thu giữ trong túi quần của S 200.000đ và trong túi quần của Đ 01 gói ma túy. Đồng thời S giao nộp 01 gói đựng hêrôin và 01 gói đựng ma túy đá cho Công an.
 
Tang vật thu giữ gồm :
 
- 01 gói nilon màu đen có lớp giấy trắng, bên trong chứa cục vụn màu trắng. Thu trong túi quần của Lê Bá Đ.
 
- 02 gói nilon (01 gói đựng cục vụn màu trắng, 01 gói đựng hạt tinh thể màu trắng) Sót tự nguyện giao nộp và khai là chất ma túy.
 
- 200.000 đồng tiền nhà nước Việt Nam.
 
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung đã cũ.
 
Tại bản Kết luận giám định số 2317/MT-PC54 ngày 04/11/2017, phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:
 
- Các cục vụn màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,029 gam loại Hêrôin
 
- Các cục màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,267 gam loại Hêrôin
 
- Các hạt tinh thể màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,239 gam loại Methamphetamine.
 
Quá trình điều tra Nguyễn Xuân S khai nhận: Khoảng 12h ngày 29/10/2017 do nghiện ma túy nên S đi đến khu vực phường Đ mua của một người phụ nữ không quen tên là H 02 gói ma túy (01 gói là hêrôin và 01 gói là ma túy đá) giá 500.000đ để về sử dụng và bán kiếm lời. Khoảng 9h ngày 31/10/2017 Lê Bá Đ là người quen của S đi cùng với Bùi Quang T (là bạn của Đ) đến nhà Nguyễn Xuân S hỏi mua hêrôin để sử dụng. S lấy 01 gói hêrôin bán cho Đ lấy 200.000đ thì bị bắt quả tang như nêu trên. Khi bị bắt quả tang S tự nguyện giao nộp 02 gói ma túy còn lại cho cơ quan Công an. Vụ án được khởi tố điều tra và chuyển lên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thanh Hóa điều tra theo thẩm quyền.
 
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã triệu tập Lê Bá Đ và Bùi Quang T lên làm việc, 02 đối tượng khai nhận Đ gặp T ở khu vực cầu B nên rủ T góp tiền mua ma túy với mục đích về sử dụng. T đồng ý đưa cho Đ 100.000đ. Căn cứ vào kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa hành vi của Lê Bá Đ và Bùi Quang T chưa đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do đó cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T ra Quyết định xử lý hành chính đối khoản 2 điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ.
 
Đối với chiếc điện thoại thu giữ của Nguyễn Xuân S xét thấy đây là điện thoại của con trai S lấy sử dụng nhưng không sử dụng vào việc phạm tội do đó đã trả lại cho chủ sở hữu.
 
Tại cáo trạng số 23/CT-VKS-MT ngày 28/12/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đã truy tố bị cáo Nguyễn Xuân S về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 BLHS.
 
Tại phiên tòa, trong lời luận tội, đại diện VKSND thành phố T giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự 1999; đề nghị xử phạt bị cáo S mức án từ 24 đến 30 tháng tù.
 
Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận, chỉ xin xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
 
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
 
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
 
[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Xuân S khai nhận: Khoảng 09h30’ ngày 31/10/2017 khi S đang có hành vi bán 01 gói ma túy có trọng lượng 0,029 gam loại Hêrôin cho Lê Bá Đ và Bùi Quang T với giá 200.000đ thì bị phát hiện, bắt quả tang. S tự nguyện giao nộp cho cơ quan Công an 01 gói ma túy có trọng lượng 0,267 gam loại Hêrôin và 01 gói ma túy đá, có trọng lượng 0,239 gam loại Methamphetamine.
 
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, cùng các tài liệu khác phản ánh trong hồ sơ.
 
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Xuân S đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 BLHS như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng pháp luật].
 
[2 Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, xâm hại trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi nhuận đã phạm tội. Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, cần phải được xử lý nghiêm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục.
 
[3] Tuy nhiên, cần xem xét bị cáo là người không có tiền án, tiền sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tự nguyện giao nộp ma túy. Căn cứ điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo thành công dân tốt.
 
Bị cáo lần đầu phạm tội về ma túy nên không phạt tiền đối với bị cáo.
 
[4] Về vật chứng: 0,275g hêrôin và 0,218g Methamphetamine (số ma túy còn lại sau giám định) căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu tiêu hủy; 200.000đ là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước theo điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
 
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
 
Vì các lẽ trên,
 
QUYẾT ĐỊNH
 
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 BLHS 1999; Khoản 1, điểm a,b khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
 
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Xuân S phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”
 
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Xuân S: 24 ( Hai tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31/10/2017.
 
Vật chứng:
 
- Tịch thu tiêu hủy 0,275g hêrôin và 0,218g Methamphetamine tại phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự và có chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đ, Trần Thị Thúy H, Lê Thị H, Nguyễn Văn C.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 200.000đ.
 
Toàn bộ vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T theo biên bản giao nhận vật chứng số 57/THA ngày 29/12/2017 giữa Công an thành phố T và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.
 
Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.
 
Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7,9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
 
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

352
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HSST ngày 18/01/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về