TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 18/2018/HS-PT NGÀY 20/02/2017 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 20/3/2018, tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 11/2018/HSPT ngày 29 tháng 01 năm 2018 đối với bị cáo Nguyễn Hải N và bị cáo Đặng Văn B; do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hải N và bị cáo Đặng Văn B đối với bản án hình sự sơ thẩm số 86/2017/HS-ST ngày 28/12/2017 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Hải N, sinh ngày 20 tháng 02 năm 1983 tại tỉnh Hòa Bình. Nơi cư trú: Tiểu khu A1 , thị trấn Q, huyện N1, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H (đã chết) và bà Lê Thị Ngọc L, sinh năm: 1948; vợ: Lê Thị A, sinh năm 1987, con có 01 người con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: học đến lớp 10/12 thì nghỉ học. Năm 2000 chuyển vào sinh sống tại thị trấn Q, huyện N, tỉnh Quảng Bình. Ngày 07/8/2002 bị UBND tỉnh Hoà Bình đưa vào cơ sở giáo dục tại S, quận V, tỉnh Hà Tây thời hạn 24 tháng về hành vi Trộm cắp tài sản và Sử dụng trái phép chất ma tuý. Ngày 31/01/2012 bị Công an thành phố Đồng Hới xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Gây rối trật tự công cộng. Ngày 19/6/2012 bị Công an huyện Quảng Ninh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma tuý. Ngày 01/8/2017 bị Cơ quan CSĐT- Công an thành phố Đồng Hới khởi tố về tội “Trộm cắp tài sản” và “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Có mặt
2. Đặng Văn B, sinh ngày 04 tháng 4 năm 1993 tại tỉnh Quảng Bình. Nơi cư trú: Tổ dân phố F , phường L1, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn H1, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1968; vợ: Đặng Thị Ngọc R, sinh năm 1995 (Đã ly hôn), con có 01 người con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: học đến lớp 11/12 nghỉ học ở nhà làm nghề lái xe đến năm 2016 nghỉ việc ở nhà không nghề nghiệp cho đến ngày phạm tội. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 09/8/2017 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình. Có mặt
Ngoài ra trong vụ án này còn có những người bị hại: Bà Nguyễn Thị Y, chị Nguyễn Thị Hoài T, chị Diệp Thị Hồng T1, chị Vũ Thị D, cháu Nguyễn Thị M1 và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chị Ngô Thị Thanh N3, anh Đặng Văn H2, anh Nguyễn Lộc P, anh Hoàng Trung T2, anh Nguyễn Ngọc Thanh H3 nhưng những người này không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo của các bị cáo nên Toà án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để có tiền mua ma tuý và tiêu xài cá nhân, từ ngày 31/7/2017 đến ngày 05/8/2017, Nguyễn Hải N và Đặng Văn B đã thực hiện 05 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình cụ thể:
- Vụ thứ 1: Khoảng 14h 00’ ngày 31/7/2017, Nguyễn Hải N rũ Đặng Văn B đi cướp giật tài sản, B đồng ý. B điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8- 7784 (xe của ông Đặng Văn H1 là bố B) chở N ngồi sau chạy trên đường quốc lộ I tìm người nào sơ hở để cướp giật tài sản. Khi đến đường K thuộc tổ dân phố N4, phường Đ1 phát hiện chị Vũ Thị D đang cầm trên tay 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37, B dừng xe N đi bộ đến giật điện thoại di động của chị D rồi lên xe tẩu thoát. Sau đó, cả hai đưa điện thoại di động đến Cửa hàng điện thoại Thế giới di động ở số 1 đường O, phường L2, thành phố Đ bán cho anh Nguyễn Lộc P 2.240.000 đồng, chia nhau tiêu xài hết.
Tại Kết luận định giá số 537 ngày 22/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - thành phố Đồng Hới kết luận: 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37 trị giá 1.000.000 đồng.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại tài sản cho chị D. Quá trình truy tố, gia đình Đặng Văn B đã bồi hoàn số tiền 2.240.000 đồng cho anh P.
- Vụ thứ 2: Khoảng 11h 30’ ngày 02/8/2017, Đặng Văn B điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8- 7784 chở Nguyễn Hải N ngồi sau chạy trên đoạn đường giao nhau giữa đường C với đường C1 thuộc Tổ dân phố B1, phường P1, phát hiện bà Phan Thị Y đi xe đạp, trong giỏ xe có 01 túi xách. B điều khiển xe vượt lên phía bên trái, N ngồi sau dùng tay phải giật túi xách rồi cả hai tẩu thoát. Sau đó, cả hai lục soát trong túi xách có 300.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG GT- S7582L và một số giấy tờ. Túi xách và giấy tờ ném lại bên đường, ĐTDĐ Nam lấy sử dụng sau đó bán cho chị Nguyễn Ngọc Thanh H3 ở hiệu cầm đồ L3 lấy 150.000 đồng. Số tiền 300.000 đồng và tiền bán điện thoại di động cả hai chia nhau tiêu xài hết.
Tại Kết luận định giá số 537 ngày 22/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - thành phố Đồng Hới kết luận: 01 điện thoại di động hiệu SASUNG GT- S7582L trị giá 500.000 đồng.
Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 ĐTDĐ hiệu SAMSUNG GT- S7582L cho bị hại. Bà Phan Thị Y không yêu cầu gì thêm. Bà Y không yêu cầu N và B bồi hoàn số tiền 150.000 đồng.
- Vụ thứ 03: Khoảng 14h 00’ ngày 02/8/2017, Đặng Văn B điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8- 7784 chở Nguyễn Hải N ngồi sau chạy trên đường K1, đến trước Trung tâm dịch vụ việc làm thanh niên thuộc TDP F1, phường P1, phát hiện chị Diệp Thị Hồng T1 đi xe đạp cùng chiều, trong giỏ xe có 01 ba lô. B điều khiển xe vượt lên phía bên trái, N ngồi sau dùng tay phải giật ba lô rồi bỏ chạy về Trường tiểu học L1 lục soát trong ba lô lấy 01 điện thoại di động hiệu OPPO A39, một số sách vở và đồ dùng cá nhân. B ném sách vở và giấy tờ còn túi xách đưa về nhà cất giữ. ĐTDĐ cả hai đưa đến hiệu cầm đồ R1 ở TDP B1, P1 cầm cho anh Hoàng Trung T2 (là chủ hiệu cầm đồ) lấy 2.000.000 mua ma tuý và tiêu xài hết.
Tại Kết luận định giá số 537 ngày 22/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - thành phố Đồng Hới kết luận: 01 ĐTDĐ hiệu OPPO A39 trị giá 1.500.000 đồng.
Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 ĐTDĐ hiệu OPPO A39, 01 ba lô da cho bị hại, chị T1 không yêu cầu gì thêm.
Quá trình truy tố gia đình B đã bồi hoàn đủ số tiền 2.000.000 đồng cho anh Hoàng Trung T2.
- Vụ thứ 4: Khoảng 22h 00’ ngày 04/8/2017, Đặng Văn B điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8- 7784 chở Nguyễn Hải N ngồi sau chạy trên đường K2 tìm người nào sơ hở để cướp giật tài sản. Khi đến trước số nhà E2 đường K2 thuộc TDP F1, phường P1, phát hiện cháu Nguyễn Thị M1 (sinh năm 2002) đi xe đạp cùng chiều, trong giỏ xe có 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI. B điều khiển xe vượt lên phía bên phải, N ngồi sau dùng tay trái giật điện thoại rồi tẩu thoát. Điện thoại di động B đem về sử dụng.
Tại Kết luận định giá số 537 ngày 22/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - thành phố Đồng Hới kết luận: 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI trị giá 500.000 đồng.
Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 điện thoại di động hiệu HUAWEI cho cháu Nguyễn Thị M1.
- Vụ thứ 5: Khoảng 20h 30’ ngày 05/8/2017, Đặng Văn B điều khiển xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8- 7784 chở Nguyễn Hải N ngồi sau chạy vòng trên địa bàn thành phố Đ tìm người nào sơ hở để cướp giật tài sản. Khi đến trước số nhà E đường K3 thuộc tổ dân phố D1, phường P1, phát hiện chị Nguyễn Thị Hoài T điều khiển xe mô tô phía trước, túi quần sau có 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6 PLUS. B điều khiển xe vượt lên phía bên trái chị T, dùng tay phải giật điện thoại đưa cho N rồi cả hai chạy về đường C3, phường L1. N đưa điện thoại di động cho B cất giữ. Ngày 06/8/2017 khi N và B đang tìm nơi tiêu thụ ĐTDĐ thì bị Cơ quan Công an phát hiện bắt giữ.
Tại Kết luận định giá số 537 ngày 22/8/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS - thành phố Đồng Hới kết luận: 01 điện thoại di động hiệu IPHONE 6 PLUS trị giá 10.000.000 đồng.
Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ và trả lại 01 ĐTDĐ hiệu IPHONE 6 PLUS cho chị Nguyễn Thị Hoài T; thu giữ 01 xe mô tô hiệu YAMAHA- SIRIUS, BKS 74K8 - 7784 và 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Ngô Thị Thanh N2.
Tại bản án sơ thẩm số 86/2017/HS-ST ngày 28/12/2017 của Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới đã tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hải N, Đặng Văn B phạm tội “Cướp giật tài sản".
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46; tiết 1 điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/8/2017.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; tiết 1 điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn B 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/8/2017.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, tuyên buộc các bị cáo Nguyễn Hải N và Đặng Văn B liên đới nộp lại số tiền 450.000đ để sung công quỹ nhà nước, tuyên buộc các bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Ngày 05/01/2018 bị cáo Nguyễn Hải N có đơn kháng cáo với nội dung cho rằng bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 04 năm tù là quá cao. Gia đình bị cáo rất khó khăn, mẹ thường xuyên đau ốm, bố không có việc làm thuộc hộ cận nghèo; bị cáo vợ đã ly hôn phải nuôi con nhỏ; gia đình có công với cách mạng được tặng hưởng Huân huy chương kháng chiến, bản thân bị cáo nhận thức về pháp luật còn hạn chế, nay đề nghị cấp phúc thẩm xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm trở về cố gắng phụng dưỡng bố mẹ già và chăm sóc con nhỏ.
Ngày 05/01/2018 bị cáo Đặng Văn B có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt 36 tháng tù là quá cao. Bố mẹ bị cáo là người đã cao tuổi, con bị cáo mới 1 tuổi, bị cáo là lao động chính trong gia đình, mới vi phạm lần đầu. Đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét lại cho phù hợp để giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tại phiên toà: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Hải N và Đặng Văn B, giữ nguyên án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hải N và Đặng Văn B đã khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát và án sơ thẩm đã nhận xét. Vì vậy có đủ cơ sở để khẳng định, các bị cáo Nguyễn Hải N và Đặng Văn B bị Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử về tội “Cướp giật tài sản” là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Hải N và Đặng Văn B, Hội đồng phúc thẩm xét xử thấy rằng:
Trong thời gian từ ngày 31/7/2017 đến ngày 05/8/2017 các bị cáo Nguyễn Hải N, Đặng Văn B đã cùng nhau thực hiện 05 vụ cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình, gây thiệt hại 13.800.000 đồng. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất ổn định an ninh trật tự, trị an xã hội. Đối với bị cáo Nguyễn Hải Nam là đối tượng đã từng bị xử phạt do vi phạm pháp luật mà còn là người đã khởi xướng, chủ động cù rủ Đặng Văn B thực hiện hành vi phạm tội khi lợi dụng sơ hở của người bị hại đang tham gia giao thông để trực tiếp thực hiện 05 vụ cướp giật tài sản ngay giữa ban ngày.
Đối với bị cáo Đặng Văn B mặc dù lần đầu tiên phạm tội nhưng Đặng Văn B thực hiện hành vi tội phạm một cách tích cực, phạm tội nhiều lần, ngoài ra B còn dùng xe mô tô của bố mình để chở Nguyễn Hải N cùng trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội và cùng nhau hưởng lợi bất chính.
Các lý do để xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Hải N và bị cáo Đặng Văn B đã được cấp sơ thẩm xem xét. Tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo không xuất trình thêm được chứng cứ gì mới. Vì vậy, mức hình phạt 4 năm tù đối với bị cáo Nguyễn Hải N và 3 năm tù đối với bị cáo Đặng Văn B mà Toà án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với các bị cáo là phù hợp, không nặng, cần giữ nguyên án sơ thẩm
[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hải N và bị cáo Đặng Văn B không được cấp phúc thẩm chấp nhận nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4]Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015, xử:
[1] Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hải N và bị cáo Đặng Văn B, giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm p khoản 1 Điều 46; tiết 1 điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự năm 1999: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hải N 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/8/2017.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; tiết 1 điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Đặng Văn B 03 (ba) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/8/2017.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hải N, Đặng Văn B với thời hạn 45 ngày theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử phúc thẩm, để đảm bảo thi hành án.
[2] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hải N phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Đặng Văn B phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
[3] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 18/2018/HS-PT ngày 20/03/2018 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 18/2018/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/03/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về