Bản án 18/2018/HNGĐ-PT ngày 12/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 18/2018/HNGĐ-PT NGÀY 12/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 05/2018/TLPT-HNGĐ ngày 07 tháng 02 năm 2018 về việc Ly hôn

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 133/2018/ HNGĐ-ST ngày 19 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh bị kháng nghị

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 50/2018/QĐ-PT ngày 11 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị T; cư trú tại: Thôn 2, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam.

- Bị đơn: Anh Đoàn Văn T; cư trú tại: Thôn 14, xóm Q, xã T, huyện T, tỉnh Nam Định.

- Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh

Tại phiên tòa: Có mặt chị T, vắng mặt anh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Toà án nguyên đơn chị Trương Thị T trình bày: Chị và anh Đoàn Văn T kết hôn ngày 26/12/2016 có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện T, tỉnh Nam Định, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống được khoảng 5 tháng thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp nhau. Từ tháng 4/2017 đến nay vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung, tài sản chung không có, nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Sau khi thụ lý Toà án cấp sơ thẩm đã gửi giấy triệu tập anh Đoàn Văn T nhiều lần thông qua gia đình nhưng anh Đoàn Văn T không có mặt. Bà Phạm Thị K là mẹ đẻ của anh Đoàn Văn T cho biết: Gia đình bà đã thông báo cho anh T biết về việc chị T xin ly hôn, anh T đã nhận được thông báo thụ lý, thông báo hoà giải, nhưng anh T đang làm trên Hà Nội, vì công việc không về Toà án để giải quyết. Anh T, chị T sống với nhau khoảng 3-4 tháng thì ly thân chưa có con chung và tài sản chung, nay chị T xin ly hôn đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật, gia đình không có ý kiến gì.

Từ nội dung trên, Bản án dân sự sơ thẩm số 133/2018/ HNGĐ-ST ngày 19 tháng 12 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh đã căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xử cho chị Trương Thị T ly hôn anh Đoàn Văn T.

Ngày 17-01-2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh có quyết định kháng nghị số 01/QĐKN/VKS-DS với nội dung: Sau khi Toà án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho bà Phạm Thị K là mẹ đẻ anh T, bà K có ý kiến “Bà đã nhận được biên bản giao và giấy triệu tập, còn với anh T bà không liên lạc được”. Từ đó có thể thấy bà K không liên lạc được với anh T nên bà K không nhận trách nhiệm thông báo cho anh T biết về việc Toà án đưa vụ án ra xét xử. Ngày 13-12-2017 khi Toà án tống đạt quyết định hoãn phiên toà cho bà Phạm Thị K , bà K cũng chỉ ký nhận chứ không có ý kiến gì, không nhận trách nhiệm thông báo cho anh T biết. Do đó, có thể thấy anh Đoàn Văn T không biết về việc Toà án cấp sơ thẩm đưa vụ án ra xét xử, việc không biết này sẽ làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của anh Đoàn Văn T.

Do bị đơn là anh Đoàn Văn T không có mặt theo giấy triệu tập, nên Toà án cấp sơ thẩm đã lập biên bản lấy lời khai bà Phạm Thị K mẹ đẻ anh T là không đúng, vì bà K không phải là đương sự. Trong trường hợp này Thẩm phán phải áp dụng điểm e khoản 2, khoản 3 Điều 97 của Bộ luật Tố tụng Dân sự ra quyết định thu thập chứng cứ và tiến hành xác minh tài liệu chứng cứ và vì vậy vụ án này thuộc trường hợp Viện kiểm sát phải tham gia phiên toà. Toà án cấp sơ thẩm không thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà là không đúng. Vì vậy, đề nghị huỷ Bản án sơ thẩm để xét xử lại.

Tại phiên toà phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và trình bày: Chị và anh Đoàn Văn T quen nhau qua mạng sau đó kết hôn, nên cuộc sống chung không có hạnh phúc. Vợ chồng chỉ sống với nhau được thời gian ngắn rồi ly thân. Thực tế anh T vẫn sống ở địa phương nhưng cố tình lẩn tránh không đến Toà. Chị đề nghị Toà án cho chị được ly hôn với anh T để giải phóng cho chị có điều kiện ổn định cuộc sống.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định phát biểu quan điểm: Những người tiến hành tố tụng và chị T đã chấp hành đúng những quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Anh T đã được Toà án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không chấp hành. Tuy nhiên, các tài liệu hiện thu thập được chưa có căn cứ xác định anh T có nhất trí với Bản án sơ thẩm hay không. Biên bản do địa phương lập xác minh về việc gia đình anh T sau khi nhận trách nhiệm đã chuyển giấy báo cho anh T chưa, phần ghi quan điểm của anh T không phải chữ của bà K (mẹ anh T), nên đề nghị Hội đồng xét xử huỷ Bản án sơ thẩm xét xử lại để đảm bảo quyền tham gia phiên toà cho anh T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh thấy rằng: Khi Toà án tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử cho mẹ đẻ anh T, bà K có ý kiến về việc bà không liên lạc được và không nhận trách nhiệm thông báo cho anh T biết, sau đó Toà án tống đạt quyết định hoãn phiên toà cho bà Khuyên, bà K cũng chỉ ký nhận chứ không nhận trách nhiệm thông báo cho anh T biết. Như vậy, việc tống đạt trực tiếp không thực hiện được, lẽ ra Toà án phải tiến hành niêm yết văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

[2] Do bị đơn là anh T không có mặt theo giấy triệu tập, nên Toà án cần xác minh làm rõ có thuộc trường hợp bị đơn cố tình lẩn tránh hay không. Trong trường hợp này Thẩm phán phải ra quyết định thu thập chứng cứ và tiến hành xác minh, sau đó cần thông báo để Viện kiểm sát cử Kiểm sát viên tham gia phiên toà mới đúng. Nên nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trực Ninh là có căn cứ.

[3] Tuy nhiên, sau khi thụ lý, Toà án cấp phúc thẩm đã triệu tập rất nhiều lần nhưng anh T vẫn cố tình không có mặt. Đã có đủ căn cứ xác định anh T đã biết về việc Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu xin ly hôn của chị T theo thủ tục sơ thẩm đến phúc thẩm nhưng anh T cố tình từ chối khai báo. Khi làm việc với Tòa án cấp phúc thẩm gia đình anh T đã nhận trách nhiệm chuyển giấy báo cho anh T, đồng thời thừa nhận anh T đã được gia đình thông báo về việc Toà án cấp phúc thẩm đang giải quyết vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm đã làm đầy đủ các thủ tục tống đạt giấy báo thông qua gia đình và đã niêm yết giấy báo phiên toà theo quy định của pháp luật, nên có đủ điều kiện xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại khoản 3 Điều 296 bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015. Mặt khác, chị T và anh T kết hôn do tìm hiểu qua mạng, qu¸ tr×nh chung sèng đã phát sinh mâu thuẫn, không còn hạnh phúc, vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người mỗi nơi, thực sự không còn quan tâm đến nhau. Từ lâu đã không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng phải thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc gia đình, đặc biệt cả hai bên không còn thiện chí thực hiện nghĩa vụ sống chung với nhau theo quy định tại các khoản 1, 2 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định về “Tình nghĩa vợ chồng”. Tòa án đã nhiều lần thông báo, triệu tập, nhưng anh T không trả lời, chứng tỏ anh T đã có ý thức bỏ mặc, không muốn níu kéo tình cảm gia đình với chị T. Khi tống đạt giấy báo phiên toà lần 2 bà K (mẹ anh T) đã xác nhận về việc anh T đã nhất trí với Bản án sơ thẩm. Còn chị T xác định không còn tình cảm với anh T, anh chị không còn khả năng đoàn tụ. Việc anh T không chấp hành giấy báo phiên toà của cấp phúc thẩm mặc dù biết mục đích xét xử phúc thẩm để xem xét bảo vệ quyền được tham gia phiên toà của anh T, đã chứng tỏ anh T từ chối mọi quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Xét việc huỷ Bản án sơ thẩm để xét xử lại sẽ không thể thay đổi bản chất hôn nhân giữa anh T và chị T đã thực sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn. Nên cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T xin ly hôn với anh T để sớm giải phóng cho cả hai bên.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Giữ nguyên bản án sơ thẩm;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014,

1. Xử cho chị Trương Thị T ly hôn với anh Đoàn Văn T;

2. Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, chị T phải nộp án phí 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Được trừ vào khoản tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm chị T đã nộp theo Biên lai thu tiền số 04663 ngày 03/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trực Ninh (Chị T đã nộp đủ án phí).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án. án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
  • Tên bản án:
    Bản án 18/2018/HNGĐ-PT ngày 12/06/2018 về ly hôn
  • Số hiệu:
    18/2018/HNGĐ-PT
  • Cấp xét xử:
    Phúc thẩm
  • Lĩnh vực:
    Hôn Nhân Gia Đình
  • Ngày ban hành:
    12/06/2018
  • Từ khóa:
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HNGĐ-PT ngày 12/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:18/2018/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về