TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 18/2017/HSPT NGÀY 14/08/2017 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 14/8/2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 20/2017/HSPT ngày 19 tháng 6 năm 2017 đối với các bị cáo Nguyễn Văn S và Trần Đăng H. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 10/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Nguyễn Văn S - sinh ngày 25 tháng 4 năm 1983, tại huyện L, tỉnh B.
ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn V, xã H, huyện L, tỉnh B. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12.
Con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị C1. Bị cáo có vợ là Nguyễn Thị C2 và có 02 con, lớn nhất sinh năm 2010, nhỏ nhất sinh năm 2012.
Tiền án; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/12/2016 đến ngày 22/12/2016.
Hiện đang được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
2. Trần Đăng H - sinh ngày 18 tháng 02 năm 1976, tại huyện M, tỉnh N.
ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn H, xã M, huyện M, tỉnh N.
Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 9/12.
Con ông Trần Đăng V và bà Vũ Thị T. Bị cáo có vợ là Hoàng Thị D và có 04 con, lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2015.
Tiền án; tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/12/2016 đến ngày 29/12/2016. Hiện đang được tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.
Ngoài ra còn có các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Phạm Công C, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M, Lý Chính Q không kháng cáo và không bị kháng nghị.
NHẬN THẤY
Theo cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 16 giờ 10 phút ngày 01 tháng 12 năm 2016, tại Kiốt số 2, khu thương mại công nghiệp K, thuộc phường D, thành phố L. Tổ công tác thuộc Công an thành phố Lào Cai phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn S, Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Trần Đăng H, Phạm Công C, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M và Lý Chính Q đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa ăn tiền. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản phạm tội quả tang thu giữ vật chứng gồm: Thu trên chiếu bạc số tiền 3.850.000 đồng (Ba triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng), 01 bát sứ màu trắng, 01 đĩa sứ màu trắng, 04 quân vị hình tròn cắt ra từ vỏ bao thuốc lá, 12 miếng xốp trải sàn. Ngoài ra cơ quan điều tra cũng tạm giữ số tiền 42.770.000 đồng (Bốn mươi hai triệu bảy trăm bảy mươi nghìn đồng) và một số tài sản giấy tờ khác của các đối tượng.
Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận:
Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 01 tháng 12 năm 2016, Đoàn Thị H đang bán hàng tại khu Kiốt số 2, khu thương mại công nghiệp K, thuộc phường D, thành phố L thì có 02 người nam giới (không rõ tên, tuổi, địa chỉ) đến uống nước, sau khi uống nước xong, 02 người nam giới hỏi mượn địa điểm và bát, đĩa để chơi đánh bạc tại Kiốt số 2 của Hương, Hương đồng ý, sau đó 02 người nam giới lấy bát, đĩa, cắt quân vị và ngồi chơi bạc bằng hình thức xóc đĩa. Được khoảng 30 phút thì Nguyễn Văn S; Phạm Công C và Nguyễn Khánh D đến tham gia đánh bạc. Trong thời gian sau đó Đoàn Thị H cùng Nguyễn Xuân T, Trần Đăng H, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M và Lý Chính Q cũng đến tham gia đánh bạc cùng. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, 02 đối tượng đến chơi đầu tiên ra về, Nguyễn Văn S thay vào cầm cái xóc bát, đĩa, các đối tượng khác tham gia đặt tiền và quy định khi mở bát nếu trong 4 quân vị mà có 03 quân cùng màu, 01 quân khác màu thì là "Lẻ", nếu cả 4 quân vị hoặc có 02 quân vị cùng màu thì là "Chẵn", dãy bên tay phải trước mặt người cầm cái là "Cửa chẵn", dãy bên tay trái trước mặt người cầm cái là "Cửa lẻ", người chơi có thể đặt tiền vào cửa "Chẵn- lẻ" đánh với người cầm cái là Sơn, nếu ai đánh "Cửa chẵn" mà kết quả sau khi mở bát về chẵn thì người đó thắng thì sẽ được người cầm cái trả gấp đôi số tiền đặt cược (tính cả tiền đặt cược) còn người đánh lẻ sẽ bị thua và mất số tiền đặt cược cho người cầm cái và ngượi lại, mỗi lần tham gia đặt cược số tiền của mỗi người chơi thấp nhất là 50.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong, Sơn để 04 quân vị vào một đĩa sứ rồi úp bát lên xóc nhiều lần rồi đặt xuống chiếu để mọi người đặt cược.
Đến 16 giờ 10 phút cùng ngày khi các bị cáo đang đánh bạc bằng hình thức ăn tiền thì bị Công an thành phố Lào Cai bắt quả tang. Qúa trình điều tra xác định các bị cáo sử dụng số tiền 17.190.000 đồng vào mục đích đánh bạc, trong đó: Bị cáo Nguyễn Văn S là người trực tiếp cầm cái xóc đĩa và dùng số tiền 1.000.000 đồng để đánh bạc, khi bị bắt quả tang Sơn đang thắng số tiền 10.400.000 đồng; Đoàn Thị H bỏ ra số tiền 250.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đã thua hết số tiền 250.000 đồng; Nguyễn Xuân T bỏ ra số tiền 400.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đã thua hết số tiền 400.000 đồng; Trần Đăng H bỏ ra số tiền 500.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang chưa được, chưa mất số tiền nào; Phạm Công C đem theo số tiền 13.200.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đã thua hết số tiền 12.910.000 đồng; Nguyễn Khánh D đem theo số tiền 1.000.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đang thắng số tiền 100.000 đồng; Hoàng Văn N bỏ ra số tiền 100.000 đồng tham gia chơi bạc, khi đang đặt cược thì bị bắt quả tang; Vũ Thị N đem theo số tiền 150.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đã thua hết số tiền 150.000 đồng; Hoàng Thị M đem theo số tiền 150.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đã thua hết số tiền 150.000 đồng; Lý Chính Q đem theo số tiền 440.000 đồng tham gia chơi bạc, khi bị bắt quả tang đó thua hết số tiền 50.000 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 10/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn S, Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Trần Đăng H, Phạm Công Ch, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M, Lý Chính Q phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 06 (Sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tự tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, khấu trừ cho bị cáo Nguyễn Văn S thời gian bị tạm giữ, tạm giam là 21 (Hai mươi mốt) ngày.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Đăng H 05 (Năm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, khấu trừ cho bị cáo Trần Đăng H thời gian bị tạm giữ, tạm giam là 28 (Hai mươi tám) ngày.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với các bị cáo Phạm Công C, Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M.
Xử phạt bị cáo Phạm Công C 6 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 1 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Đoàn Thị H 04 (Bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T 04 (Bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh D 04 (Bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Hoàng Văn N 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Vũ Thị N 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án; Xử phạt bị cáo Hoàng Thị M 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1 Điều 46; Điều 20; Điều 53; khoản 1 và khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Lý Chính Q 03 (Ba) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án.
Phạt các bị cáo Nguyễn Văn S, Trần Đăng H, Phạm Công C, Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M, Lý Chính Q mỗi bị cáo 5.000.000đồng (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.
Ngày 18/5/2017 các bị cáo Nguyễn Văn S và Trần Đăng H kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Văn S và Trần Đăng H giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 điều 248; điểm đ khoản 1 điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa bản bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 10/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai theo hướng giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo Nguyễn Văn S được hưởng án treo. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đăng H vì không có căn cứ cho bị cáo Huy được hưởng án treo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các bị cáo.
XÉT THẤY
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn S và Trần Đăng H khai nhận:
Khoảng 15 giờ ngày 01/12/2016 bị cáo Nguyễn Văn S vào quán chị Đoàn Thị H đang bán hàng tại khu Kiốt số 2, khu thương mại công nghiệp K, thuộc phường D, thành phố L để uống nước, tại đây bị cáo thấy một số người đánh bạc bằng hình thức sóc đĩa ăn tiền, bị cáo tham gia chơi một lúc thì người cầm cái đi về, bị cáo tiếp tục là người cầm cái, trong người bị cáo có 20.000.000 đồng, bị cáo bỏ số tiền 1.000.000 đồng từ số tiền đó ra để chơi. Khoảng 15h30 bị cáo Trần Đăng H vào gửi trả chị Đoàn Thị H chiếc xe máy thì thấy một số người đanh đánh bạc sóc đĩa, trong người Huy có 3.000.000 đồng, Huy bỏ ra 500.000 đồng từ số tiền đó để đặt vào các cửa. Bị cáo Sơn cầm cái chơi được khoảng 12 đến 13 ván đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì công an bắt quả tang. Tại thời điểm bắt quả tang bị cáo Sơn thắng được số tiền 10.400.000 đồng. Bị cáo Huy không thua, không thắng.
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định Bản án số 29/2017/HSST ngày 10/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử các bị cáo Nguyễn Văn S và Trần Đăng H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, khoản 3 Điều 248 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét kháng cáo của các bị cáo:
Đối với bị cáo Nguyễn Văn S: Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Văn S là người tham gia đánh bạc với những tất cả các bị cáo khác nhằm mục đích sát phạt nhau bằng tiền, đồng thời là người trực tiếp cầm cái điều khiển chiếu bạc khi người cầm cái trước đó đi về, xong thực tế bị cáo Sơn cũng không phải là người tổ chức hay rủ rê, lôi kéo các bị cáo khác tham gia vào việc đánh bạc. Mặt khác trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, ngoài ra bị cáo còn có ông ngoại là liệt sỹ nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bị cáo mức án 06 tháng tù là phù hợp. Xong hiện nay bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình, sau khi xét xử sơ thẩm vợ bị cáo đã bỏ nhà đi đâu không rõ, một mình bị cáo phải chăm sóc 02 con nhỏ cùng bố mẹ đẻ và bà ngoại. Bị cáo được chính quyền địa phương xác nhận là gia đình chính sách, luôn chấp hành mọi chủ chương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật để bị cáo có điều kiện chăm sóc con cái và bố mẹ già, do vậy đối với bị cáo không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Đối với bị cáo Trần Đăng H: Bị cáo Trần Đăng H là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử về tội đánh bạc, đã được xóa án tích nên bị cáo không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng được tặng huân chương chiến sỹ giải phóng hạng ba năm 1976 và 1980, huy hiệu 40 năm tuổi đảng, huy chương chiến sỹ vẻ vang, huy chương kháng chiến hạng nhất năm 1979, 1985, theo hướng có lợi cho bị cáo, bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trên để áp dụng hình phạt cho bị cáo, tuyên bị cáo mức án 05 tháng tù là phù hợp, không nặng không nhẹ, tương xứng với mức độ và hành vi của bị cáo. Vì bị cáo là người có nhân thân xấu nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo hưởng án treo.
Từ phân tích trên cho thấy, kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn S có căn cứ để chấp nhận. Kháng cáo của bị cáo Trần Đăng H không có căn cứ chấp nhận. Cần xét xử phúc thẩm theo hướng: Sửa bản án sơ thẩm, giữ nguyên phần hình phạt tù đối với bị cáo Nguyễn Văn S và cho hưởng án treo.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Xuân T, Phạm Công C, Nguyễn Khánh D, Hoàng Văn N, Vũ Thị N, Hoàng Thị M, Lý Chính Q và quyết định về xử lý vật chứng vụ án không có kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trần Đăng H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 248; điểm đ khoản 1 điều 249 Bộ luật tố tụng hình sự:
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn S. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đăng H.
Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 29/2017/HSST ngày 10/5/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn S và giữ nguyên phần hình phạt đối với bị cáo Trần Đăng H cụ thể như sau:
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm tính từ ngày tuyên án phúc thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Huyền Sơn, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 248; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 20; Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm x khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Đăng H 05 (Năm) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, khấu trừ cho bị cáo Trần Đăng H thời gian bị tạm giữ, tạm giam là 28 (Hai mươi tám) ngày.
Phạt các bị cáo Nguyễn Văn S, Trần Đăng H mỗi bị cáo 5.000.000đồng (Năm triệu đồng) sung quỹ Nhà nước.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Trần Đăng H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
“Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự”
Bản án 18/2017/HSPT ngày 14/08/2017 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 18/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/08/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về