Bản án 18/2017/DS-ST ngày 18/07/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

BÁN ÁN 18/2017/DS-ST NGÀY 18/07/2017 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI

Trong ngày 17/8/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 67/2017/TLST-DS ngày 14/7/2017, về việc “Tranh chấp Hợp đồng góp hụi”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2017/QĐST-DS ngày 02/8/2017, giữa các đương sự

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị T; Sinh năm: 1960; Địa chỉ cư trú: Ấp N, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt)

- Bị đơn: Bà Nguyễn Ngọc A; Sinh năm: 1959; Địa chỉ cư trú: Ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện do bà Đặng Thị T lập ngày 06/7/2017, biên bản lấy lời khai đương sự ngày 02/8/2017, biên bản hòa giải ngày 02/8/2017 và tại phiên tòa, nguyên đơn Đặng Thị T trình bày như sau:

Bà Đặng Thị T, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Ngọc A, sinh năm 1959 là hàng xóm, quen biết nhiều năm. Bà A là chủ hụi theo hình thức có lập sổ hụi, nhưng không cấp sổ cho hụi viên mà bà A tự quản lý sổ hụi để theo dõi. Trong năm 2015, bà T có tham gia góp 03 dây hụi do bà A làm chủ hụi, cụ thể:

- Ngày 18/5/2015, bà T tham gia dây hụi 10 ngày mở hụi một lần, mỗi phần hụi là 1.000.000 đồng, dây hụi có 34 phần, bà T tham gia 02 phần. Từ ngày 18/5/2015 đến ngày 17/02/2016, đối với dây hụi này bà T đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 48.200.000 đồng.

- Ngày 19/7/2015, bà T tham gia dây hụi 01 tuần mở hụi một lần, mỗi phần hụi là 1.000.000 đồng, dây hụi có 34 phần, bà T tham gia 01 phần. Từ ngày 19/7/2015 đến ngày 21/02/2016, đối với dây hụi này bà T đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 27.350.000 đồng.

- Ngày 17/10/2015, bà T tham gia dây hụi 05 ngày mở hụi một lần, mỗi phần hụi là 100.000 đồng, dây hụi có 340 phần, bà T tham gia 30 phần. Từ ngày 17/10/2015 đến ngày 22/02/2016, đối với dây hụi này bà T đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 72.000.000 đồng.

Bà T đã đóng tiền hụi cho bà A tổng số tiền là 147.550.000 đồng. Ngày 26/02/2016, bà A bỏ đi khỏi địa phương nên vỡ hụi và bà A chưa thực hiện việc hoàn trả tiền hụi cho bà T. Nay bà T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà A hoàn trả khoản nợ hụi gốc là 147.550.000 đồng.

* Theo biên bản lấy lời khai đương sự ngày 02/8/2017, biên bản hòa giải ngày 02/8/2017 và tại phiên tòa, bị đơn Nguyễn Ngọc A trình bày như sau: Bà A thống nhất xác định có việc tổ chức góp hụi và hiện nay bà Ánh có nợ bà Đặng Thị T khoản nợ hụi gốc với số tiền là 147.550.000 đồng như bà T trình bày. Nay bà A thống nhất hoàn trả cho bà T khoản nợ gốc là 147.550.000 đồng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh kinh tế gặp khó khăn nên bà A xin trả nợ dần cho bà T.

* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trần Đề tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Về việc giải quyết vụ án: Qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng Điều 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

+ Xử buộc bà Nguyễn Ngọc A hoàn trả cho bà Đặng Thị T khoản nợ hụi gốc với số tiền là 147.550.000 đồng và chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng:

[2] Về thủ tục thụ lý việc khởi kiện của nguyên đơn: Ngày 06/7/2017, Tòa án nhân dân huyện Trần Đề nhận được đơn khởi kiện của bà Đặng Thị T lập ngày 06/7/2017 cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo do bà T nộp trực tiếp tại Tòa án. Ngay sau khi nhận được đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án thực hiện thủ tục nhận, xử lý đơn khởi kiện của bà T và thụ lý vụ án theo đúng quy định tại các điều 191 và 195 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3]  Về  thẩm  quyền  giải  quyết  vụ  án:  Theo  đơn  khởi  kiện  lập  ngày 06/7/2017, bà T yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng góp hụi với bị đơn Nguyễn Ngọc A có nơi cư trú tại ấp C, xã Đ, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định việc Tòa án nhân dân huyện Trần Đề thụ lý, giải quyết vụ án theo trình tự sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ án.

(thiếu)

[6] Xét yêu cầu của nguyên đơn Đặng Thị T yêu cầu bà Nguyễn Ngọc A hoàn trả khoản nợ hụi gốc với số tiền là 147.550.000 đồng:

[7] Tại phiên tòa, bà T và bà A đều xác định: Bà T có tham gia ba dây hụi do bà A làm chủ mở vào các ngày 18/5/2015, 19/7/2015 và 17/10/2015. Dây hụi ngày 18/5/2015 là hụi 10 ngày/kỳ, mỗi phần hụi là 1.000.000 đồng, bà T tham gia 02 phần và đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 48.200.000 đồng. Dây hụi ngày 19/7/2016 là hụi 01 tuần/kỳ, mỗi phần hụi là 1.000.000 đồng, bà T tham gia 01 phần và đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 27.350.000 đồng. Dây hụi ngày 17/10/2015 là hụi 05 ngày/kỳ, mỗi phần hụi là 100.000 đồng, bà T tham gia 30 phần và đã đóng tiền hụi cho bà A số tiền là 72.000.000 đồng. Tổng số tiền hụi bà T đã đóng cho bà A là 147.550.000 đồng và khi vỡ hụi đến nay bà A chưa hoàn trả tiền hụi cho bà T. Theo khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”. Như vậy, việc bà T và bà A có hợp đồng góp hụi và hiện nay bà A còn nợ tiền hụi gốc của bà T với số tiền là 147.550.000 đồng là có thật. Xét khi giao kết hợp đồng góp hụi, bà T và bà A là những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, giao kết hợp đồng dựa trên cơ sở tự nguyện của hai bên, mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, nên công nhận đây là hợp đồng góp hụi hợp pháp theo quy định tại các điều 122, 389, 401 và 479 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, phía bà A đã có lỗi khi đơn phương chấm dứt hợp đồng (bà A bỏ đi khỏi địa phương nên vỡ hụi). Sau khi vỡ hụi, bà T đã yêu cầu bà A thực hiện nghĩa vụ thanh toán lại khoản tiền hụi gốc mà bà T đã đóng nhưng phía bà A không thực hiện, điều này đã gây thiệt thòi quyền lợi cho bà T. Do đó, căn cứ vào Điều 426 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và các điều 26 và 14 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường, yêu cầu của bà T đòi bà A hoàn trả khoản nợ hụi gốc với số tiền là 147.550.000 đồng là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về đề nghị của bà A xin trả dần khoản nợ hụi cho bà T, nhưng bà T không đồng ý. Xét đề nghị này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn Đặng Thị T được Tòa án chấp nhận nên  bị  đơn  Nguyễn  Ngọc A chịu toàn  bộ  án  phí dân  sự sơ thẩm là 7.377.500 đồng (147.550.000 đồng x 5% = 7.377.500 đồng).

[10] Về quyền kháng cáo bản án: Căn cứ vào Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự 2015; các điều 122, 389, 401, 479 và 426 của Bộ Luật Dân sự 2005; các điều 26 và 14 của Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 357 của Bộ Luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). 

* Tuyên xử: 

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đặng Thị T. Xử buộc bà Nguyễn Ngọc A có trách nhiệm hoàn trả cho bà Đặng Thị T khoản nợ hụi gốc với số tiền là 147.550.000 đồng (Một trăm bốn mươi bảy triệu, năm trăm năm mươi ngàn đồng).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Ngọc A chịu án phí dân sự sơ thẩm là 7.377.500 đồng (Bảy triệu, ba trăm bảy mươi bảy ngàn, năm trăm đồng). Bà Đặng Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho bà Đặng Thị T số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 3.688.750 đồng (Ba triệu, sáu trăm tám mươi tám ngàn, bảy trăm năm mươi đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006396 ngày 11/7/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Đề, tỉnh Sóc Trăng.

3. Về nghĩa vụ thi hành án:

- Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án dân sự có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án Dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

539
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2017/DS-ST ngày 18/07/2017 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:18/2017/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về