TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 181/2021/HS-ST NGÀY 02/07/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 02 tháng 7 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 190/2021/TLST- HS ngày 09 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 170/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Xuân H, sinh năm 1997 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: 122 khóm T, phường T, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân L và bà Trương Thị K; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/02/2021. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Trương Minh T, sinh năm 1987, nơi cư trú: Ấp H, xã V, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; tạm trú: C72A khu phố B, phường B, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
- Người tham gia tố tụng khác:
Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1981. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Xuân H là đối tượng sống lang thang và không có công việc ổn định, cần tiền tiêu xài cá nhân nên đã nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Thực hiện ý định trên, vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 14/02/2021, Hùng đặt xe mô tô Grab của ông Trương Minh T để đi từ đường Man Thiện, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đến ngã tư Hòa Lân, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, ông T điều khiển xe mô tô chở H đến ngã tư Hòa Lân. Khi đến ngã tư Hòa Lân thì Hùng yêu cầu ông Thành tiếp tục chở đến đường Bình Chuẩn 34 thuộc khu phố Bình Phước B, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, khi đến trước số nhà 63/35 đường Bình Chuẩn 34 thì H nói với ông T dừng xe lại. Lúc này H nhờ ông T sử dụng điện thoại của của ông T gọi vào số điện thoại do H cung cấp để gọi cho người quen đến đón và trả tiền xe, ông T bấm số điện thoại theo yêu cầu của H nhưng người quen của H không nghe máy nên ông T đưa điện thoại cho H, H cầm điện thoại của ông T bước xuống xe và đi bộ cách ông T khoảng 03 đến 04 mét, thấy nghi vấn nên ông T xuống xe để đi theo H thì bất ngờ H cầm điện thoại bỏ chạy vào bên trong đường hẻm Bình Chuẩn 34, ông Thành truy hô và đuổi theo H. Sau khi H chiếm đoạt được chiếc điện thoại thì tắt nguồn điện thoại, sau đó bỏ chạy vào bên trong căn nhà có địa chỉ 6E/5, khu phố Bình Phước B, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An do ông Nguyễn Văn N là chủ nhà để lẩn trốn. Thấy có người lạ chạy vào nhà nên ông N có hỏi H chuyện gì và đồng thời lúc này ông N nghe tiếng tri hô của ông T trước cửa nên cùng với ông T bắt giữ H và trình báo Công an phường Bình Chuẩn để xử lý theo quy định. Tại cơ quan Công an H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Căn cứ biên bản định giá và Bản kết luận định giá tài sản ngày 17/02/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An xác định giá trị tài sản:
01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen có trị giá là 5.500.000 đồng.
Cáo trạng số 207/CT-VKSTA ngày 09/6/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Trần Xuân H tội Cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định như bản cáo trạng đã truy tố và xác định: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã được thu hồi trả cho chủ sở hữa nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo Trần Xuân H mức án từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã thu hồi giao trả cho bị hại và bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình nên xin được hưởng mức hình phạt thấp nhất để có điều kiện làm lại cuộc đời.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Xuân H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định:
Vào khoảng 21 giờ 20 ngày 14/02/2021, tại địa điểm trước số nhà 63/35 đường Bình Chuẩn 34 thuộc khu phố Bình Phước B, phường Bình Chuẩn, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương khi bị hại đưa cho bị cáo điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen có trị giá là 5.500.000 đồng để bị cáo gọi điện cho người quen ra trả tiền xe grab, lợi dụng lúc bị hại không để ý, bị cáo đã cầm điện thoại nhanh chóng tẩu thoát. Hành vi của bị cáo đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Cướp giật tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Do đó, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội Cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật, mức đề nghị hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi cướp giật tài sản là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị, nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi, nên bị cáo cố ý phạm tội nên cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, tài sản đã thu hồi giao trả cho chủ sở hữu, bị cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản chiếm đoạt là 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu đen có trị giá là 5.500.000 đồng đã được thu hồi giao trả cho chủ sỡ hữu, bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;
- Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Trần Xuân H phạm tội Cướp giật tài sản.
Xử phạt bị cáo Trần Xuân H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/02/2021.
2. Về án phí: Bị cáo Trần Xuân H phải chịu 200.000đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết.
Bản án 181/2021/HS-ST ngày 02/07/2021 về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 181/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về