Bản án 181/2021/HS-PT ngày 18/03/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 181/2021/HS-PT NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 138/2021/TLPT-HS ngày 17 tháng 02 năm 2021 đối với các bị cáo Nguyễn Văn Đ; Phạm Thanh S; Nguyễn Văn Q phạm tội” Bắt giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”; Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội “Cướp tài sản”; Do có kháng cáo của các Bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2020/HS-ST ngày 10 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Các Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ tên: Nguyễn Văn Đ, sinh năm: 19xx; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Thụy H, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội, Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn V và con bà Nguyễn Thị X; Có vợ: Đinh Thị Ngọc Th; Có 02 con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân:

1 Ngày 30/6/2010, Tòa án nhân dân huyện Đông Anh tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, 12 tháng thử thách về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ( Đã xóa án tích).

Ngày 21/02/2019, Công an huyện Đông Anh xử phạt hành chính về hành vi Đánh nhau (Bị xử phạt hành chính sau khi phạm tội trong vụ án này). Bị cáo được tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

2. Họ tên: Phạm Thanh S, sinh năm: 19Xx; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số 10/466 Hoàng Hoa Thám, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:

12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Phạm Xuân Th (Đã chết) và con bà : Lưu Thị Mai Th; Vợ: Nguyễn Thị H; Có 2 con: Con lớn sinh năm 2000; Con nhỏ sinh năm 2009 Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo hiện đang áp dụng Biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn Q, sinh năm: 19xx; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Quan Â, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ học vấn: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn Trư và con bà Nguyễn Thị H; Vợ: Nguyễn Thị Ph; Có 02 con: Con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo được tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

4. Họ tên: Nguyễn Văn V, sinh năm: 19Xx; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn Thụy H, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 3/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn Th (Đã chết) và con bà: Nguyễn Thị Đ; Vợ thứ nhất: Nguyễn Thị H (Đã chết), Vợ thứ hai: Nguyễn Thị X; Có 05 con, lớn nhất sinh năm 1979, con nhỏ nhất sinh năm 1990; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân:

Ngày 06/11/1987, Công an huyện Đông Anh bắt, lập danh chỉ bản số: 000005598 về hành vi “Trộm cắp tài sản” của công dân. Kết quả xác minh không xác Đ được hình thức xử lý đối với bị cáo Nguyễn Văn V.

Ngày 20/6/1988, Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của công dân theo Bản án số: 42/HS/ST( Đã xóa án tích).

Ngày 09/01/1996, Công an huyện Đông Anh ra Quyết Đ xử phạt hành chính về hành vi” Đánh bạc”.

Bị cáo được tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Bị cáo không kháng cáo:

Nguyễn Văn Nh, sinh năm: 1990.

Nơi ĐKHKTT và Chỗ ở: Thôn Thụy H, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội:

Bị hại:

Anh Đỗ S T, sinh năm 1994.

Trú tại: Số 195 Bạch M, quận Hai Bà Tr, thành phố Hà Nội.

(Vắng mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi liên quan:

Anh Nguyễn Minh H, sinh năm: 1999.

Trú tại: Ngõ chùa Liên Phái, phố Bạch Mai, phường Cầu Dền, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.

Người làm chứng:

Anh Nguyễn Tiến Tuấn, sinh năm 1993.

Trú tại: Số 03, ngõ 07, đường Cửa Nam, thôn Thụy Hà, xã Bắc Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 04/02/2019, anh Đỗ S Tùng đến Công an huyện Đông Anh trình báo về việc: Khoảng 20h00’ ngày 03/02/2019, anh Tùng đi cùng với Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Huy Hoàng đến nhà bị cáo Nguyễn Văn Nh để đòi nợ thì bị một số người đánh gây thương tích và mất trộm số tiền 10.000.000 đồng. Anh Tùng đề nghị Cơ quan Công an làm rõ các đối tượng đánh gây thương tích cho anh và xử lý theo quy Đ của pháp luật, tìm trả lại số tài sản anh Tùng bị mất trộm.

Căn cứ vào đơn trình báo và lời khai của anh Tùng cùng những tài liệu chứng cứ thu thập được, Cơ quan điều tra đã điều tra làm rõ các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q có hành vi đánh gây thương tích cho anh Tùng; Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị cáo đối với các bị cáo Đ, Q, S về tội Cố ý gây thương tích theo quy Đ tại khoản 1 Điều 134 của Bộ luật hình sự. Trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thu thập được xác Đ Đ các bị cáo Q, S ngoài hành vi Cố ý gây thương tích cho anh Tùng còn có hành vi Cướp tài sản, Bắt giữ người trái pháp luật; Các bị Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh có hành vi Cướp tài sản. Ngày 29/11/2019 Cơ quan điều tra đã ra Quyết Đ khởi tố bị cáo đối với các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh và quyết Đ khởi tố bổ sung quyết Đ khởi tố đối với các bị cáo Đ, Q, S để điều tra xử lý theo quy Đ, cụ thể:

Khoảng ngày 13/01/2019, chị Phạm Ngọc Phương giới thiệu cho bị cáo Nguyễn Văn Nh (Cậu ruột của chị Phương) vay 10.000.000 đồng của anh Đỗ S Tùng dưới hình thức “Bốc họ”. Tùng cắt tiền lãi trước 2.000.000 đồng, tiền 2.000.000 đồng đóng họ trước 10 ngày vào dịp Tết nguyên đán 2019 và 600.000 đồng chi phí đi lại của Tùng (Tiền thuê xe taxi về xem nhà bị cáo Nh tại Đông Anh), còn lại bị cáo Nh cầm số tiền 5.400.000 đồng anh Tùng đưa. Bị cáo Nh đã đóng tiền cho Tùng được 9 ngày, rồi không đóng tiếp theo hẹn Tùng gọi điện thoại cho bị cáo Nh đòi nợ nhiều lần nhưng không liên lạc được.

Khoảng 20h00 ngày 03/02/2019 (tức ngày 29 Tết nguyên đán Kỷ Hợi), Đỗ S Tùng, Nguyễn Minh Hiếu (Sinh năm: 1999; Trú tại: ngõ chùa Liên Phái, Bạch Mai, Cầu Dền, Hai Bà Trưng, Hà Nội) và nam thanh niên tên Mai Huy Hoàng (Chưa rõ nhân thân lai lịch) điều khiển xe máy Honda SH màu đen trắng (Hiếu tháo BKS: 29B1 – 031.13 để trong cốp xe) đến nhà Nguyễn Văn Nh đòi nợ. Lúc này tại gia đình bị cáo Nguyễn Văn Nh có các bị cáo Nguyễn Văn V, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn Đ và các chị Nguyễn Thị Hạnh (Vợ bị cáo S), chị Nguyễn Thị Pháp (Vợ bị cáo Q), chị Đinh Thị Ngọc Thảo (Vợ bị cáo Đ) đang ăn cơm tất niên. Anh Nguyễn Minh Hiếu đỗ xe máy ngoài ngõ, cách cổng nhà bị cáo V khoảng 10m và đứng trông xe, các anh Đỗ S Tùng, Mai Huy Hoàng đi vào cổng gọi Nh. Bị cáo V ra hỏi “Gọi Nh có việc gì”, Tùng nói “gặp Nh nói chuyện tiền nong”. Chị Hạnh đi ra cổng và nhận ra nhóm của Tùng trước đó khoảng 5-7 ngày đã sang nhà chị Hạnh để đòi tiền Phương (Con gái chị Hạnh). Tùng hỏi “Nh có nhà không”, ông V nói “Nh không có ở nhà”; Tùng và Hoàng nói “xe taxi ở kia (Xe của Nh lái để ngoài ngõ) mà bảo không có nhà, bác bảo nó gọi lại cho cháu ngay”. Ông V nói “Nhà tao thiếu gì người biết lái ô tô”. Hai bên lời qua tiếng lại, bị cáo V và chị Hạnh gọi người trong nhà. Bị cáo Đ cầm một thanh kim loại dài 104cm, đường kính 02cm (Sử dụng làm gậy treo phơi quần áo), bị cáo S cầm điếu cày, bị cáo Q không mang theo hung khí chạy ra ngoài cổng. Bị cáo S cầm điếu cày vụt Hiếu một cái, Hiếu dùng tay đỡ được rồi bỏ chạy cùng Hoàng. Bị cáo S và bị cáo Q đuổi theo Hiếu và Hoàng khoảng 10m nhưng không kịp. Đỗ S Tùng ngồi trên xe máy Honda SH Đ nổ máy bỏ chạy nhưng bị bị cáo V giữ lại. Bị cáo S và bị cáo Q quay lại cùng Đ dùng tay tát vào mặt Tùng. Tùng vùng bỏ xe chạy khiến chiếc xe máy Honda SH bị đổ (Chìa khóa điện vẫn cắm ở xe), vừa chạy Tùng vừa quay lại chửi “Đ.mẹ tao gọi anh em tao sang giết cả nhà chúng mày” rồi chạy ra khu vực cánh đồng thôn Thụy Hà. Bị cáo V dắt xe máy Honda SH vào trong sân, sau đó một mình đến Công an xã Bắc Hồng trình báo về việc nhóm thanh niên lạ mặt đến đòi nợ, bỏ lại một chiếc xe máy. Công an xã Bắc Hồng hướng dẫn bị cáo V gọi điện trình báo đến Đồn Công an Nam Hồng để kịp thời xử lý vụ việc.

Không đuổi được anh Tùng, Bị cáo Đ quay lại sân nhà lấy xe máy, mang theo điếu cày một mình đi tìm nhóm Tùng. Bị cáo Q cũng quay lại sân lấy xe máy chở S đi theo hướng khác để tìm Tùng. Nhìn thấy Tùng đang đi trên đường giáp cánh đồng thôn Thụy Hà, Đ điều khiển xe áp sát và dùng chân đạp vào lưng Tùng, dùng điếu cày vụt trúng đầu Tùng làm chảy máu. Sau đó bị cáo Đ nhờ một nam thanh niên tên Tùng (Chưa xác Đ được nhân thân lai lịch - là người đi qua đường) đưa Đỗ S Tùng về nhà bị cáo V. Trên đường caosbij cáo Đ gọi điện thoại báo cho S “ Bắt được anh Đỗ S Tùng, đang đưa về nhà”. Các bị cáo Q và S liền quay về nhà bị cáo V.

Bị cáo S lấy một chậu nước hắt vào người Tùng và dùng tay đánh vào mặt Tùng. Bị cáo Đ để điếu cày vào ven tường rồi dùng chân tay đấm đá vào mặt, đầu Tùng; Bị cáo Nh dùng điện thoại quay lại sự việc. Bị cáo Đ dùng chiếc dép xốp đánh 2-3 cái vào mặt Tùng, yêu cầu Tùng bỏ hết đồ trên người ra ngoài. Tùng lấy điện thoại, một chùm chìa khóa và ví tiền ra. Phát hiện tin nhắn đi ện thoại của Tùng có nội dung “Vứt hết giấy tờ đi”, bị cáo Q dùng tay phải đấm vào mặt Tùng và tra hỏi giấy tờ vay nợ của bị cáo Nh. Tùng nói “để trong cốp xe”. Bị cáo V yêu cầu Tùng mở cốp xe ra kiểm tra, phát hiện bên trong cốp xe có 01 hộp đựng đôi khuyên tai bằng kim loại màu trắng, 01 chiếc ví, 01 chiếc BKS: 29B1-031.13. Do không thấy giấy tờ gì liên quan đến việc bị cáo Nh vay nợ, các Bị cáo cho Tùng đóng cốp xe, cầm chìa khóa.

Bị cáo S vào trong nhà cầm chai bia thủy tinh (Hãng bia Hà Nội) vừa uống vừa chửi Tùng về việc cho vay tiền và sang nhà bị cáo S đòi nợ, sau đó đứng đối diện Tùng (Cách khoảng 3m) ném chai bia trúng vào đầu Tùng làm chảy máu. Bị cáo V bảo mọi người “đi lấy thuốc lào cầm máu” cho Tùng và bảo các bị cáo S, Đ, Q không đánh Tùng nữa, gọi Công an đến giải quyết. Do bị đánh đau, Tùng xin không báo Công an mà để gọi người nhà mang giấy tờ vay nợ đến xí xóa nợ. Bị cáo V đồng ý, bảo Tùng vào trong nhà ngồi đợi người mang giấy tờ đến, bị cáo V nhiều lần thúc giục Tùng gọi điện về nhà bảo người mang giấy vay nợ của Nh đến.

Khoảng 21h00’, Đỗ S Tùng gọi điện thoại, bảo ông Đỗ Đức Chính (Sinh năm:

1959; Trú tại: số 195, Bạch Mai, Cầu Dền, Hai Bà Trưng, Hà Nội - bố đẻ của Tùng) mang giấy tờ của Nh vay nợ sang Đông Anh. Sau đó nam thanh niên tên Hoàng (Chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà ông Chính tìm giấy vay nợ của bị cáo Nh rồi đưa ông Chính đi đến khu vực bốt Hàng Đậu (Thuộc Hoàn Kiếm, Hà Nội) gặp anh Nghiêm Xuân Hải là chú của Nguyễn Minh Hiếu để cùng đi xe taxi sang Đông Anh. Đỗ S Tùng bảo anh Nguyễn Đức Thành là cháu họ bị cáo V) nhờ người ra gặp người nhà Tùng đang đến Đông Anh lấy giấy tờ trước để Tùng tự đi xe máy Honda SH về luôn. Sau đó, Tùng ra sân mở cốp xe máy Honda SH lấy trong ví 400.000 đồng đưa cho anh Thành, anh Thành bảo các anh Nguyễn Văn Hoàng và Nguyễn Đình Việt (cũng đều là cháu họ bị cáo V) đi ra đường Võ Nguyên Giáp (Đoạn thuộc địa phận thôn Vân Trì, Vân Nội, huyện Đông Anh) đón người nhà Tùng sau đó đưa cho anh Hoàng và anh Việt mỗi người 200.000 đồng. Anh Hoàng và anh Việt đến gặp xe taxi của anh Hải, bảo lấy giấy tờ cho Tùng. Anh Hải nói “Chưa nhìn thấy người (Tùng) thì chưa đưa”, sau đó anh Hoàng và anh Việt đưa xe taxi của anh Hải đến nhà bị cáo V. Anh Hải và ông Chính đưa cho bị cáo V một quyển sổ hộ khẩu, một giấy mua bán xe máy và một giấy vay nợ viết tay của bị cáo Nh. Tùng nói còn thiếu một giấy đăng kiểm xe và hẹn sẽ gửi cho nhà bị cáo S sau. Bị cáo V đưa giấy bút, bắt Tùng viết giấy cam đoan với nội dung “Tôi có xích mích với Nh về tiền nợ nần, hôm nay tôi có xuống giải hòa với gia đình anh Nh, từ hôm nay trở đi không đôi co gì với nhà anh Nh hay xích mích gì nữa, từ nay hai bên không vướng mắc gì với nhau”. Viết xong anh Tùng đưa giấy cho bị cáo V rồi ra xe taxi cùng ông Chính, anh Hải lấy xe máy Honda SH đi về. Sau đó, bị cáo V đưa cho bị cáo Nh quyển sổ hộ khẩu và giấy vay nợ, bị cáo Nh giữ sổ hộ khẩu và xé luôn tờ giấy vay nợ, hai bên xác Đ xóa hết nợ. Anh Tùng được ông Chính và anh Hải đưa đến Bệnh viện đa khoa Đông Anh khám thương. Bệnh viện đa khoa Đông Anh xác Đ thương tích ban đầu của Đỗ S Tùng: Vào viện lúc 00h46’ ngày 04/02/2019, tiếp xúc tỉnh, hoạt động tốt, mạch và huyết áp ổn Đ, glassgow 15 điểm; có 01 (Một) vết thương dài khoảng 05cm ở vùng thái dương đỉnh trái bờ nham nhở, 01 (Một) vết thương khoảng 02cm vùng trán đỉnh, xây sát trán trái kích thước (01x1,5)cm, xây sát ở thái dương trái kích thước (03x03)cm, bầm tím dưới mắt trái lằn đỏ da kích thước (01x01)cm ở vùng gò má phải, đau vùng cổ sau không có bầm tím, cắt lớp vi tính sọ, chụp X-Q cột sống cổ không có tổn thương.

Ngày 10/4/2019, Trung tâm pháp y Hà Nội kết luận (Bản kết luận giám Đ pháp y thương tích số: 282/TTPY) Đỗ S Tùng tổn hại 05% (Năm phần trăm) sức khỏe. Đỗ S Tùng đề nghị truy tố các đối tượng trước pháp luật.

Kết quả xem xét dấu vết trên thân thể của chị Nguyễn Thị Hạnh xác Đ có 01 vết xước da vùng cẳng tay trái dài khoảng 10cm; Của Phạm Thanh S xác Đ có sưng nề bầm tím gối trái kích thước (02x03)cm. Chị Hạnh và S từ chối giám Đ thương tích, không có yêu cầu đề nghị gì.

Cơ quan điều tra tạm giữ vật chứng:

- Trong quá trình khám nghiệm hiện trường: các mảnh nhựa vỡ diện (0,71x0,24)m; các mảnh thủy tinh (dạng vỏ chai bia) vỡ diện (0,2x0,23)m.

- Của Đỗ S Tùng: 01 (Một) xe máy Honda SH màu trắng, BKS: 29B1 – 03113.

- Của bị cáo Nguyễn Văn Đ: 01 (Một) điếu cày có chiều dài 56,8cm; Đường kính 04cm.

- Của Nguyễn Minh Hiếu: 01 (Một) đăng ký xe máy BKS: 29B1 – 031.13 mang tên chủ xe Nguyễn Thanh Nga (Địa chỉ: 111-D3, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội); 01 giấy bán xe máy BKS: 29B1 – 031.13 của cửa hàng xe máy Tuấn Anh đề ngày 18/01/2018.

- Của bị cáo Nguyễn Văn Q: 01 (Một) chiếc điện thoại Iphone 5 vỏ màu trắng, số Imei: 358807052666399.

- Của chị Đinh Thị Ngọc Thảo: 01 (Một) thanh kim loại màu trắng, dài 104cm, đường kính 02cm.

- Ccaosbij cáo Nguyễn Văn V: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 vỏ màu vàng, số Imeil: 399303064816981, lắp số thuê bao 0984251957; 01 (Một) tờ giấy đề chữ “Bản cam đoan” có chữ ký người viết Đỗ S Tùng.

- Của bị cáo Nguyễn Văn Nh: 01 (một) sổ hộ khẩu số 241078316 mang tên chủ hộ Nguyễn Văn Nh; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu đỏ, số Imei1: 863314034396144, Imeil2: 863314034696246, lắp số thuê bao 0987761990 và 01 (Một) điện thoại Iphone 7 vỏ màu hồng, Imeil:356557088376958, không lắp sim; 01 (Một) USB sao lưu hai đoạn video ghi lại nội dung vụ án.

- Của Phạm Thanh S: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung số hiệu máy SM – J730G) vỏ màu ghi lắp sim số thuê bao 0987761975.

Đối với chiếc xe máy Honda SH màu trắng đen, BKS: 29B1-031.13, số khung:

043754, số máy: 1035119, quá trình điều tra xác Đ: Đèn chiếu sáng có dấu vết vỡ nhựa, chiều ngang kích thước 10cm, chiều dọc 13cm; mặt ngoài chắn bùn phía trước bên trái có vết vỡ nhựa, kích thước dài nhất 09cm, mặt ngoài đầu trên bên phải chắn bùn phía trước có vết trượt xước nhựa, mặt vết mài miết; nhựa ốp đèn xi nhan bên phải phía trước có dấu vết vỡ nhựa dài 31,5cm. Ngày 11/3/2019, Cơ quan CSĐT- Công an huyện Đông Anh yêu cầu Đ giá tài sản trị giá tài sản bị thiệt hại, hư hỏng của chiếc xe máy Honda SH trên.

Ngày 20/3/2019, Hội đồng Đ giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đông Anh có Kết luận giá trị tài sản bị hư hỏng là: 6.420.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm hai mươi nghìn đồng).

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh khai nhận hành vi phạm tội. Riêng bị cáo Phạm Thanh S khai nhận có mức độ về hành vi cố ý gây thương tích, chỉ nhận dùng t ay tát và hắt nước vào mặt Đỗ S Tùng, không nhận việc sử dụng chai bia ném vào đầu Tùng. Bị cáo Phạm Thanh S khai vào khoảng cuối tháng 01/2019, nhóm của Tùng đã đến nhà bị cáo S (Địa chỉ: số 10, ngõ 466, Hoàng Hoa Thám, phường Bưởi, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội) đòi nợ Phương (Con gái bị cáo S), hai bên xảy ra lời qua tiếng lại, đồng thời nghi ngờ nhóm của Tùng đã in ảnh của Phương và bị cáo Nh rải khắp ngõ quanh nhà S vào buổi sáng ngày hôm sau. Chị Nguyễn Thị Hạnh cung cấp 01 (Một) tờ giấy khổ A4 in hình ảnh Phạm Ngọc Phương và bị cáo Nguyễn Văn Nh với nội dung “Cảnh báo lừa đảo quanh Ba Đình, Đông Anh, Tây hồ”. Kết quả điều tra xác Đ sự việc trên gia đình bị cáo S không trình báo cơ quan Công an, không xác Đ được người đã thực hiện hành vi in, rải ảnh nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với việc tài khoản facebook có tên “Long Vũ” đăng hình ảnh Phạm Ngọc Phương và bị cáo Nguyễn Văn Nh với nội dung “0386466423 nếu ai nhìn thấy có hậu tạ”. Chị Phương xác Đ tài khoản trên là của Vũ Thăng Long là người giới thiệu cho Phương vay tiền của Tùng). Cơ quan điều tra đã xác minh, xác Đ Vũ Thăng Long không sinh sống tại địa phương, không rõ đang ở đâu. Chị Phương và bị cáo Nh không có yêu cầu đề nghị xử lý gì, Cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý.

Đối với chiếc xe máy Honda SH, BKS: 29S1-031.13 bị hư hỏng: Quá trình điều tra xác Đ do bị bị cáo S đánh khi Tùng đang ngồi trên xe, Tùng vùng bỏ chạy khiến chiếc xe máy bị đổ, không nhằm mục đích làm hư hỏng nên không cấu thành tội phạm Cố ý làm hư hỏng tài sản, quy Đ tại Điều 178 của Bộ luật hình sự. Anh Nguyễn Minh Hiếu đề nghị bồi thường thiệt hại sau khi sửa chữa xe máy.

Đối với số tiền 20.000.000 đồng trong ví, 01 đôi khuyên tai bằng vàng trắng trị giá 5.500.000 đồng để trong cốp xe máy Honda SH, BKS: 29S1-031.13 (Nguyễn Minh Hiếu khai bị mất) và số tiền 10.000.000 đồng để trong ví (Đỗ S Tùng khai bị mất), kết quả điều tra không đủ căn cứ xác Đ nên Cơ quan điều tra không đề cập giải quyết.

Đối với việc Đỗ S Tùng cho bị cáo Nguyễn Văn Nh vay số tiền 10.000.000 đồng, quá trình điều tra Tùng không khai nhận việc cho vay có lãi suất. Tài liệu điều tra có nhiều mâu thuẫn, không xác Đ được cụ thể số tiền bị cáo Nh đã vay Tùng nên không đủ căn cứ xem xét xử lý hành vi cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự của Đỗ S Tùng.

Đối với Mai Huy Hoàng và nam thanh niên tên Tùng (Người được bị cáo Đ nhờ đưa Đỗ S Tùng về nhà ông V), quá trình điều tra Cơ quan điều tra - Công an huyện Đông Anh chưa xác Đ được nhân thân lai lịch nên không đề cập xử lý. Đối với Các mảnh nhựa vỡ diện (0,71x0,24)m; Các mảnh thủy tinh (Dạng vỏ chai bia) vỡ diện (0,2x0,23)m; 01 (Một) điếu cày có chiều dài 56,8cm; Đường kính 04cm (Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đ); 01 (Một) thanh kim loại màu trắng, dài 104cm, đường kính 02cm (Tạm giữ của chị Đinh Thị Ngọc Thảo); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung số hiệu máy SM – J730G) vỏ màu ghi lắp sim số thuê bao 0987761975 (Tạm giữ của bị cáo Phạm Thanh S) là vật chứng của vụ án, Cơ quan điều tra tiếp tục tạm giữ chuyển Tòa án nhân dân huyện Đông Anh phục vụ công tác xét xử.

Đối với 01 tờ giấy đề chữ “Bản cam đoan” có chữ ký người viết Đỗ S Tùng (Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn V) và 01 USB sao lưu hai đoạn video ghi lại nội dung vụ án (Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn Nh) là vật chứng của vụ án, Cơ quan điều tra kèm theo hồ sơ vụ án chuyển Tòa án giải quyết theo thẩm quyền. Đối với 01 xe máy Honda SH, BKS: 29B1 – 031.13, có số khung: 043754, số máy: 035119; 01 đăng ký xe máy BKS: 29B1 – 031.13 mang tên chủ xe Nguyễn Thanh Nga, địa chỉ: 111-D3, Ngọc Khánh, Ba Đình, Hà Nội, 01 giấy bán xe máy BKS: 29B1 – 031.13 của cửa hàng xe máy Tuấn Anh (Tạm giữ của Nguyễn Minh Hiếu); 01 chiếc điện thoại Iphone 5, màu trắng, số Imei:

358807052666399, lắp số thuê bao 0984251987 (Tạm giữ của Nguyễn Văn Q);

01 sổ hộ khẩu số 241078316 mang tên chủ hộ bị cáo Nguyễn Văn Nh; 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Philips vỏ màu đỏ, số Imei1: 863314034396144, Imeil2: 863314034696246, lắp số thuê bao 0987761990 (Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn Nh); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu vàng, số Imeil:399303064816981, lắp số thuê bao 0984251957 (Tạm giữ của bị cáo Nguyễn Văn V) là tài sản cá nhân của các Bị cáo và những người liên quan trong vụ án, không phải vật chứng. Ngày 13/8/2019 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trao trả các tài sản cho chủ sở hữu.

Trách nhiệm dân sự: Đỗ S Tùng yêu cầu bồi thường số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) trong đó chi phí điều trị có hóa đơn là 1.133.263 đồng ngoài ra không chứng minh được các thiệt hại khác.

Bản cáo trạng số: 03/CT -VKS -ĐA ngày 16.01.2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q về tội: Bắt giữ người trái pháp luật, Cố ý gây thương tích, Cướp tài sản quy Đ tại khoản 1 Điều 134, khoản 1 Điều 157 và điểm d khoản 2, Điều 168 của Bộ luật hình sự; Các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh về tội Cướp tài sản quy Đ tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật hình sự ;

Ngày 29/6/2020 Hội đồng xét xử đã có Quyết Đ điều tra bổ sung về các vấn đề sau:

1. Điều tra làm rõ có hay không hành vi hủy hoại tài sản để trả lời cho bị hại. Đ giá lại tài sản bị thiệt hại.

2. Điều tra bổ sung, đối chất giữa Bị hại và bị cáo Nguyễn Văn Nh để làm rõ giao dịch giữa bị cáo Nguyễn Văn Nh và Đỗ S Tùng là giao dịch vay tiền hay mua bán xe máy Lead để xác Đ chính xác số tiền các Bị cáo chiếm đoạt trong vụ án.

3. Cần xác minh làm rõ Bị cáo Nguyễn Văn Nh có đứng tên đăng kí bất kì loại xe mô tô nhãn hiệu Hon Da Lead hay không? 4.Tiến hành xác minh làm rõ nội dung bức ảnh một thanh niên nam và nữ ( Bút lục159) này được chụp ở đâu, nam thanh niên và cô gái trong anh đang viết gì. Nam thanh niên và cô gái trong ảnh là ai. Xác Đ tiêu đề và nội dung của các văn bản trong bức ảnh chụp nam thanh niên và cô gái trong ảnh đang viết.

Ngày 13/7/2020 Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh có công văn phúc đáp quyết Đ yêu cầu điều tra bổ sung với những lí do các nội dung yêu cầu điều tra không cần thiết ủiêng yêu cầu Đ giá lại tài sản không phúc đáp) Ngày 31/8/2020 Hội đồng xét xử đã có Quyết Đ điều tra bổ sung đối với nội dung về Đ giá tài sản.

Trước ngày mở phiên tòa các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q và anh Đỗ S Tùng đã thỏa thuận được với nhau giải quyết bồi thường dân sự về hành vi cố ý gây thương tích. Anh Tùng đã có đơn xin rút yêu cầu khởi tố, truy tố đối với hành vi Cố ý gây thương tích, bắt giữ người trái pháp luật với Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q.

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q tại phiên tòa đã thừa nhận hành vi phạm tội bắt giữ người trái pháp luật.

Về tội Cướp tài sản bị cáo S không thừa nhận mình có ý thức chiếm đoạt tài sản của Tùng là các giấy vay tiền cũng như số tiền vay bị cáo Nh chưa giả cho Tùng. Hành vi ném chai bia thủy tinh bị cáo S nhận có ném về hướng của Tùng nhưng không cố ý ném vào người Tùng.

Bị cáo Đ không dám khẳng Đ hành vi của mình là có phải phạm tội cướp tài sản hay không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Các Bị cáo Q, Nh và V sau khi trình bầy lời khai, trả lời các câu hỏi của Hội đồng xét xử tại phiên tòa diễn ra vào tháng 6 năm 2020 đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, cũng không nhận thức được hành vi đã thực hiện vào tối ngày 4/2/2019 tại nhà bị cáo Nguyễn Văn V là phạm tội Cướp tài sản.

Nguyên nhân có các hành vi như đã nêu trong bản Cáo trạng là do trước đó các bị cáo trừ các bị cáo V, Nh có uống rượu và bia nên tinh thần bị kích động mạnh trước hành vi trái pháp luật của Tùng và Hiếu đến nhà đòi nợ và hành hung người nhà. Các Bị cáo không nhớ rõ mình đã làm gì nên khai báo chưa được đầy đủ. Các bị cáo đã tự nguyện bồi thường số tài sản chiếm đoạt cho Tùng. Về số tiền Tùng khai để trong ví bị mất các Bị cáo không chiếm đoạt.

Các bị cáo V, Nh, S, Q đã bồi thường số tiền mà bị cáo Nh vay còn chưa trả cho Tùng với số tiền 6.000.000 đồng Người bị hại anh Đỗ S Tùng xin rút yêu cầu khởi tố đối với tội Cố ý gây thương tích và bắt giữ người trái pháp luật. Không yêu cầu bồi thường liên quan đến hai tội danh này.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã quyết Đ:

1.Áp dụng Điều 155 của Bộ luật tố tụng hình sự Đình chỉ xét xử đối với các Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q về tội Cố ý gây thương tích do anh Đỗ S Tùng rút yêu cầu khởi tố vụ án.

Anh Đỗ S Tùng không có quyền yêu cầu lại trừ trường hợp có căn cứ xác Đ người yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức.

Chuyển vụ việc cố ý gây thương tích sang cơ quan điều tra Công an huyện Đông Anh để xử lí hành vi cố ý gây thương tích theo Luật xử lí vi phạm hành chính.

2. Tuyên bố:

2.1 Các Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q phạm tội: Bắt, giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản.

2.2 Các Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh phạm tội Cướp tài sản Áp dụng khoản 1 Điều 157 và điểm d khoản 2, Điều 168 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q;

Áp dụng điểm d khoản 2, Điều 168 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn V, Nguyễn Văn Nh.

Áp dụng điểm e,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự ; Áp dụng thêm điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 với các bị cáo Q, S, Nh, V; Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo S, Q, Đ; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với Đ, Q và S. Riêng bị cáo V áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, bị cáo Nh áp dụng thêm điểm I khoản 1 Điều 51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 - Áp dụng Điều 106, 136, 331, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 của Bộ luật hình sự;

- Điều 584, Điều 585, Điều 587, Điều 589, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

- Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy Đ về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử phạt:

1. Nguyễn Văn Đ 8 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật; 7 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 7 năm 8 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Phạm Thanh S 6 tháng tù bắt giữ người trái pháp luật; 7 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 7 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Nguyễn Văn Q 6 tháng tù về tội bắt giữ người trái pháp luật; 7 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 7 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

5. Nguyễn Văn V 4 năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

5. Nguyễn Văn Nh 3 năm tù về tội cướp tài sản nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân xã Bắc Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội quản lý giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp Bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện quy Đ của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết Đ buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bán án đã cho hưởng án treo.

Trách nhiệm dân sự: Xác nhận các bị cáo Nguyễn Văn Nh đã bồi thường cho anh Đỗ S Tùng số tiền 1.500.000 đồng theo Biên lai số: AA/2017/0005929 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Xác nhận các bị cáo Nguyễn Văn V đã bồi thường cho anh Đỗ S Tùng số tiền 1.000.000 đồng theo Biên lai số: AA/2017/0005930 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Xác nhận các bị cáo Nguyễn Văn Q đã bồi thường cho anh Đỗ S Tùng số tiền 2.500.000 đồng theo Biên lai số: AA/2017/0005928 ngày 13/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Xác nhận các bị cáo Phạm Thanh S đã bồi thường cho anh Đỗ S Tùng số tiền 1.000.000 đồng theo Biên lai số: AA/2017/0005932 ngày 16/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh.

Tổng cộng 6.000.000 đồng.

Các bị cáo V, Q, S có không yêu cầu Bị cáo Nh bồi hoàn số tiền mình đã bồi thường nên không giải quyết trong Bản án này.

Chấp nhận một phần yêu cầu của anh Nguyễn Minh Hiếu yêu cầu số bồi thường tiền sửa chữa xe máy Honda SH có BKS: 29S1-031.13 Buộc bị cáo Phạm Thanh S phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại chi phí sửa chữa chiếc xe máy Honda SH có BKS: 29S1-031.13 là: 6.420.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy Đ tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Không chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Minh Hiếu và anh Đỗ S Tùng buộc các Bị cáo phải bồi thường 20.000.000 đồng trong ví, 01 đôi khuyên tai bằng vàng trắng trị giá 5.500.000 đồng để trong cốp xe máy Honda SH, BKS: 29S1-031.13 Không chấp nhận yêu cầu của anh Đỗ S Tùng buộc các Bị cáo phải bồi thường số tiền 10.000.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các Bị cáo, người Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

Ngày 19/11/2020 bị cáo Nguyễn Văn Q kháng cáo xem xét lại Bản án. Ngày 18/11/2020 bị cáo Nguyễn Văn Đ kháng cáo xin giảm hình phạt Ngày 18/11/2020 bị cáo Phạm Thanh S kháng cáo xem xét lại Bản án.

Ngày 16/11/2020 bị cáo Nguyễn Văn V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phiên tòa phúc thẩm:

Các Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội. Bị cáo Đ xin được giảm nhẹ thêm một phần hình phạt. Các bị cáo Q, S, V còn băn khoăn chưa hiểu về pháp luật, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét lại tội Cướp tài sản, các Quyết Đ khác trong Bản án các Bị cáo không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án.

Về hình thức: Các Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật Đ, nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của các Bị cáo theo trình tự phúc thẩm được quy Đ tại các điều 331,332,333 của Bộ luật Tố tụng hình sự hình sự.

Về nội dung: Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các Bị cáo, giữ nguyên tội danh Cướp tài sản, mức án; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với các bị cáo Q, S, Đ, V.

Các quyết Đ khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Các bị cáo: Q, S, V vẫn cho rằng không hiểu pháp luật, không lấy tài sản gì của Bị hại, các bị cáo Q, S chỉ có gây thương tích, bắt giữ đưa Bị hại về gia đình và có việc bị cáo V thỏa thuận xóa nhận nợ với Bị hại, trả lại nhau các giấy tờ có liên quan đến việc vay tiền. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho các Bị cáo và tội Cướp tài sản.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận Đ như sau:

1.Về hình thức:

Đơn kháng cáo của các Bị cáo nộp trong thời hạn luật Đ nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

2. Xét nội dung kháng cáo:

Căn cứ lời khai của các Bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, cũng như tại phiên tòa phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, người tự nguyện làm chứng tại phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở để kết luận:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q phạm tội: Bắt, giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản. Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội Cướp tài sản.

Hành vi nêu trên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các Bị cáo là có căn cứ.

Xét yêu cầu kháng cáo của các Bị cáo, nhận thấy:

Tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng. Bởi lẽ hành vi của các bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại quyền con người, công dân, các bị cáo S, Q, Đ đã bắt và giữ anh Tùng trái pháp luật và đã thực hiện các hành vi tiếp theo, đánh Bị hại, cướp tài sản. 04 Bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất trật tự an ninh trên địa bàn huyện Đông Anh.

Hành vi của các Bị cáo S, Q, Đ thực hiện được Hội đồng xét xem xét theo chuỗi hành vi, có liên quan hữu cơ với nhau: Từ đuổi đánh, bắt giữ người Bị hại hỗ trợ nhau về mặt tinh thần dùng bạo lực với anh Tùng nhằm mục đích để bị cáo V ép Bị hại xóa nhận nợ cho bị cáo Nh và trả lại cho Bị cáo Nh các giấy tờ có liên quan đến việc vay nhận nợ nằm ngoài ý muốn của Bị hại. Do vậy đủ cơ sở để buộc các bị cáo Q, Sơ, Đ, V phạm tội Cướp tài sản, lời nói sau cùng các Bị cáo đều xin giảm nhẹ hình phạt.

Vì vậy, cần phải xét xử nghiêm đối với các bị cáo là cần thiết nhằm mục đích cải tạo, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung phải cách ly các Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới có tác dụng giáo dục các Bị cáo trở thành người tốt.

Tuy nhiên khi quyết Đ hình phạt, Hội đồng xét xử cũng xem xét cho các Bị cáo, tại phiên toà phúc thẩm, các Bị cáo vẫn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện và đã trả lại tiền nợ cho Bị hại và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các Bị cáo, các Bị cáo trong vụ án này đều cùng trong gia đình, có quan hệ bố con, anh em, tài sản bị ép để chiếm đoạt có giá trị không lớn, Bị hại có một phần lỗi, thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho các Bị cáo. Cấp sơ thẩm đã xử phạt 04 bị cáo là quá nghiêm khắc chưa sát thực với hành vi phạm tội của các Bị cáo.

Từ những nhận Đ trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm Quyết Đ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các Bị cáo; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự; Giảm hình phạt cho các Bị cáo.

3. Về án phí: Các bị cáo Q, S, Đ, V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy Đ của pháp luật.

4. Các quyết Đ khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

I.Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo S, Q, Đ, V

II.Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 182/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội về quyết Đ hình sự; Giảm hình phạt cho các Bị cáo.

Tuyên bố:

Các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q phạm tội: Bắt, giữ người trái pháp luật và Cướp tài sản.

Bị cáo Nguyễn Văn V phạm tội Cướp tài sản.

Căn cứ khoản 1 Điều 157; Điểm d khoản 2, Điều 168; Các điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 55, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Văn Đ, Phạm Thanh S, Nguyễn Văn Q (Không áp dụng điểm b với bị cáo Đ).

Căn cứ điểm d khoản 2, Điều 168; Các điểm b,s khoản 1,2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn V.

Xử phạt:

1. Bị cáo Nguyễn Văn Đ 8 tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật; 5 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 5 năm 8 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Bị cáo Phạm Thanh S 6 tháng tù Bắt giữ người trái pháp luật; 5 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 5 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Bị cáo Nguyễn Văn Q 6 (Sáu) tháng tù về tội Bắt giữ người trái pháp luật; 5 năm tù về tội Cướp tài sản.

Tổng hợp hình phạt của cả 2 tội buộc Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung 5 năm 6 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

4. Bị cáo Nguyễn Văn V 3 (Ba) năm tù về tội Cướp tài sản. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

III.Về án phí hình sự phúc thẩm:

Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy Đ về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Các Bị cáo S, Q, Đ, V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

IV. Các quyết Đ khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm là ngày 18/03/2021./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

444
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 181/2021/HS-PT ngày 18/03/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cướp tài sản

Số hiệu:181/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về