Bản án 181/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 181/2020/HS-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 181/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 189/2020/QĐXXST-HS ngày 31tháng 08 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn P, tên gọi khác: Không; sinh năm 1988, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P1, sinh năm 1959 và con bà: Lò Thị N, sinh năm 1961; có vợ: Lò Thị S, sinh năm 1995 và 01 con sinh năm 2019; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 19/6/2020 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người có nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Lường Văn T, sinh năm 1989.

Trú tại: Bản L, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

2. Anh Lường Ngọc Q, sinh năm 1998.

Trú tại: Bản L, xã M, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên.

(Anh T, anh Q vắng mặt không lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 19/6/2020, Lò Văn P đi bộ từ nhà ở Bản N, xã T, huyện Điện Biên đến bản Na Ngum, xã T, huyện Điện Biên, mua được một gói Heroine được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh với giá 100.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 40 tuổi (không rõ tên, địa chỉ), mục đích mang về để sử dụng cho bản thân và bán lại cho người khác kiếm lời. Sau khi mua được Heroine, P mang về nhà cấu một ít Heroine ra sử dụng bằng hình thức hít, số còn lại P gói lại và cầm trên tay. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi P đang ở nhà thì Lường Văn T, sinh năm 1989, trú tại: Bản L, xã M, huyện Điện Biên đến hỏi mua Heroine để sử dụng. P đồng ý và dùng tay cấu một ít Heroine ra gói lại bằng nilon màu xanh bán cho T thu được 100.000 đồng và cất tiền vào túi quần bên phải đang mặc. Đúng lúc đó, Lường Ngọc Q, sinh năm 1998, trú tại: Bản L, xã M, huyện Điện Biên cũng đến nhà P hỏi mua ma túy để sử dụng, Q nhìn thấy P bán ma túy cho T, Q tiến đến hỏi mua 120.000 đồng Heroine, P lại tiếp tục cấu một ít Heroine ở gói đang cầm trên tay, gói lại bằng nilon màu xanh bán cho Q, thu được 120.000 đồng. Sau đó P đi xuống dưới gầm sàn nhà, còn Q và T tự ý xuống bếp nhà P sử dụng hết số Heroine vừa mua được bằng hình thức hít và trích. Hồi 10 giờ 25 phút cùng ngày tại nhà P, khi T và Q đang ngồi ở bàn uống nước, P đang đứng ở giữa nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã T phát hiện, bắt quả tang, thu giữ tại tay phải P đang cầm 0,03 (không phẩy không ba) gam Heroine và 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng) tiền P bán Heroine cho T và Q tại túi quần bên phải P đang mặc.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn P đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....

Kết luận giám định số 582/GĐ-PC09 ngày 27/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn P là 0,03 gam. Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về kết luận Giám định nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 180/CT-VKS-HĐB ngày 04/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án từ 07 (bẩy) năm đến 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,03 gam Heroine, trích mẫu 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại (vật chứng đã gửi giám định hết) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 220.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1]. Hành vi của bị cáo: Khoảng 7 giờ, ngày 19/6/2020, Lò Văn P đến bản Na Ngum, xã T, huyện Điện Biên mua được 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng của một người đàn ông dân tộc thái khoảng 40 tuổi (không rõ tên, địa chỉ), mục đích để bản thân sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Khoảng 10 giờ cùng ngày P bán cho Lường Văn T 01 gói Heroine thu được 100.000 đồng, đúng lúc đó có Lường Văn Q đến hỏi mua Heroine, P đã bán cho Q 120.000 đồng Heroine. Hồi 10 giờ 25 phút cùng ngày P đã bị tổ Công tác Công an huyện Điện Biên phối hợp với Công an xã T phát hiện, bắt quả tang thu giữ toàn bộ số Heroine còn lại mà P đang cầm trên tay phải của P có khối lượng 0,03 gam Heroine và 220.000 đồng tiền bán Heroine mà có. Căn cứ các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, lời khai tại phiên tòa thì bị cáo P phải chịu tình tiết định khung hình phạt phạm tội “Đối với 02 người trở lên”.Với hành vi trên thì có đủ căn cứ kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng cũng như địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Nên bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết nào tăng nặng. Bị cáo sinh ra và lớn lên tại Điện Biên, được bố mẹ cho đi học đến lợp 9/12. Năm 2019 kết hôn với chị Lò Thị S và sinh được 01 người con. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2014 cho đến nay. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu chính từ làm ruộng, bản thân bị cáo sử dụng ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.

[7]. Nguồn gốc số Heroine thu giữ của bị cáo, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc thái khoảng 40 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.

[8]. Lường Văn T và Lường Ngọc Q tự ý sử dụng trái phép chất ma túy tại bếp nhà P, P không biết. Vì vậy, không đủ căn cứ buộc P phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “ Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngoài ra tại cơ quan Điều tra Lường Văn T và Lường Ngọc Q khai đã mua ma túy của P và đã sử dụng hết. Ngày 13/7/2020 Công an huyện Điện Biên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 65, 66 đối với T và Q bằng hình thức: Cảnh cáo. Nên HĐXX không đặt vấn đề xử lý.

[9]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 0,03 gam Heroine, trích mẫu 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại (vật chứng đã gửi giám định hết) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 220.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có.

[10]. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn P phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn P 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 19/6/2020.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 0,03 gam Heroine, trích mẫu 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại (vật chứng đã gửi giám định hết) là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành:

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 220.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có (Vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo Biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 06/8/2020).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136/BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (10/9/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HS-ST ngày 10/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:181/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về