Bản án 181/2020/HSST ngày 09/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, TP. CẦN THƠ

BẢN ÁN 181/2020/HSST NGÀY 09/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào ngày 09 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 195/2020/HSST, ngày 08 tháng 10 năm 2020, theo quyết định hoãn phiên tòa số 192/2020/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: TRẦN VĂN L; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác: không;

- Sinh ngày.......tháng.......năm: 1989; - Nơi sinh: Long An;

- Nơi cư trú: ấp 3, xã Tân Lập, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: không;

- Trình độ học vấn: 9/12; - Nghề nghiệp: không;

- Họ và tên cha: Trần Văn Giả, sinh năm 1961 (còn sống);

- Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị Đành (đã chết);

- Anh, chị, em ruột: có 03 người (lớn sinh năm 1987, nhỏ sinh năm 1994);

- Bị cáo chưa có vợ, con;

- Tiền sự: không;

- Tiền án: chưa;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/01/2020, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

2. Họ và tên: NGUYỄN THẾ KH; - Giới tính: Nam;

- Tên gọi khác: không;

- Sinh ngày.......tháng.......năm: 2000; - Nơi sinh: Cần Thơ;

- Nơi cư trú: ấp Thới Thanh, xã Trường Xuân, huyện Thới Lai, thành phố Cần Thơ;

- Quốc tịch: Việt Nam; - Dân tộc: Kinh; - Tôn giáo: không;

- Trình độ học vấn: 9/12; - Nghề nghiệp: không;

- Họ và tên cha: Nguyễn Văn Bảy, sinh năm 1976 (còn sống);

- Họ và tên mẹ: Phạm Thị Trúc Ly, sinh năm 1978 (còn sống);

- Anh, chị, em ruột: có 01 người, sinh năm 1998;

- Bị cáo chưa có vợ, con;

- Tiền sự, tiền án: chưa;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/01/2020, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thế Kh: Luật sư Đỗ Vinh Q – Văn phòng Luật sư Vinh Q thuộc đoàn luật sư thành phố Cần Thơ ( Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua công tác tiếp nhận tin báo, vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 21/01/2020 Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an quận Ninh Kiều, tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Trần Văn L đang thuê ở cùng với Nguyễn Thế Kh, tại phòng số 7 nhà trọ Ngân Hùng, số 9 đường số 3, khu dân cư Vạn Phát, khu vực 3 Sông Hậu, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, thu giữ những tang vật sau:

- 01 gói nilon không màu nẹp miệng bên trong có chứa 40 viên nén hình tròn màu hồng để trong bọc nilon màu đen (được thu giữ dưới chân cầu thang);

- 50 gói nilon nẹp miệng rỗng bên trong;

- 01 quẹt gas; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 cân tiểu ly;

- 02 điện thoại di động hiệu Iphone, màu gold.

Tại Kết luận giám định số: 45/KL - PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: 40 viên nén tròn màu hồng trong bọc nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 12,6131gam, loại MDMA, Methylphenidate, Ketamine Tại Kết luận giám định số 5063/C09B, ngày 08/10/2020 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh xác định trong tổng số 10,2734 gam còn lại sau giám định trong bản kết luận giám định số 45/KL-PC, ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Cần Thơ thì khối lượng MDMA là 1,1824 gam và Ketamine là 0,0739 gam.

- Phân viện không có mẫu chuẩn Methylphenidate để giám định hàm lượng.

-Về khối lượng ban đầu đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ trả lời trong bản Kết luận giám định số 45/KL-PC, ngày 22/01/2020 là 12,6131 gam.

Quá trình điều tra, ban đầu 02 bị cáo Trần Văn L và Nguyễn Thế Kh khai nhận 40 viên thuốc lắc dạng nén hình tròn màu hồng mà công an thu giữ khi khám xét tại phòng 7 nhà trọ Ngân Hùng (nơi Lực đứng tên thuê trọ, đang ở cùng Khang) là của đối tượng tên Châu (không rõ lai lịch) đưa cho 02 bị cáo cất giữ để bán lại cho người nghiện, khi bán hết số ma túy này thì Châu sẽ cho tiền tiêu xài, nhưng chưa bán được thì bị Công an khám xét phát hiện, thu giữ. Tuy nhiên, sau đó 02 bị cáo thay đổi lời khai, cụ thể:

Bị cáo Nguyễn Thế Kh khai nhận: 40 viên thuốc lắc mà Công an thu giữ nêu trên là của đối tượng tên Châu (bạn của Trần Văn L) mang đến phòng trọ số 7 nhà trọ Ngân Hùng đưa cho Lực vào chiều ngày 19/01/2020, Lực cất giấu dưới đống quần áo nơi gầm cầu thang phòng trọ số 7 và nói cho bị cáo biết cất giữ số ma túy này để cùng sử dụng, bị cáo đồng ý với Lực cất giấu số ma túy này. Tuy nhiên, Bị cáo Trần Văn L không thừa nhận số ma túy bị thu giữ tại phòng trọ số 7 là của bị cáo và Khang cùng cất giấu mà khai số ma túy này là của bị cáo Nguyễn Thế Kh cất giấu, bị cáo không biết.

Chị Nguyễn Thị Ngọc (quản lý nhà trọ Ngân Hùng) xác nhận: phòng số 7 nhà trọ Ngân Hùng là do Trần Văn L đứng tên thuê ở một mình được khoảng 01 tháng, sau đó, Nguyễn Thế Kh đến ở cùng với Lực khoảng 02 - 03 ngày trước ngày Khang, Lực bị bắt. Khi lực lượng Công an khám xét phòng số 7, chị Ngọc chứng kiến việc phát hiện, thu giữ 40 viên nén tròn màu hồng trong túi nilon màu đen để dưới đống quần áo dưới cầu thang, đồng thời nghe rõ Trần Văn L khai nhận với lực lượng Công an 40 viên nén tròn màu hồng là thuốc lắc của Lực và Khang, mục đích Lực, Khang cất giấu giấu số thuốc lắc trên để bán lại cho người khác nhưng cả 02 chưa bán được thì bị bắt.

Đối với đối tượng tên Châu - đưa ma túy cho Lực, do 02 bị cáo khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 186/CT-VKSNK, ngày 08/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ truy tố Trần Văn L và Nguyễn Thế Kh về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, -Đối với bị cáo Nguyễn Thế Kh thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, thành khẩn khai báo và thể hiện sự ăn năn, hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

-Đối với bị cáo Trần Văn L thừa nhận biết số lượng 40 viên ma túy đá là do người tên Châu đưa cho Khang cất giấu tại nhà trọ do bị cáo Lực thuê, bị cáo biết bị cáo Khang cất giấu ma túy và thống nhất cùng Khang cất giấu để sử dụng, cụ thể vào ngày 19/01/2020 có lấy ma túy ra sử dụng tại nhà trọ một lần.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên cáo trạng, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

- Áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Văn L từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; Điểm s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế Kh từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy 01 Gói niêm phong số 5603, ngày 08/10/2020 của C09B là ma túy dùng vào việc phạm tội; 01 quẹt gas; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 cân tiểu ly, bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 10 ống hút nhựa; 50 gói nilon nẹp miệng rỗng bên trong là công cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Thế Kh 01 điện thoại di động Iphone X màu Gold, tất cả đã qua sử dụng vì không liên quan đến vụ án.

- Trả lại bị cáo Trần Văn L 01 điện thoại di động Iphone 6S ( A1688) màu Gold, tất cả đã qua sử dụng vì không liên quan đến vụ án.

- Tiền Việt Nam 10.000 đồng theo biên lai thu tiền số 5353, ngày 21/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ; đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nươc.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thế Kh trình bày: Về tội danh thống nhất như tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố. Về các tình tiết giảm nhẹ đề nghị xem xét cho bị cáo có nhiều người thân là bà ngoại, chú, bác là người có công với cách mạng; Bị cáo phạm tội lần đầu, không tiền án, tiền sự; Hoàn cảnh gia đình khó khăn, tuổi đời còn trẻ; Theo diễn biến sự việc thì nhà trọ là do bị cáo Lực thuê, người đem ma túy đến nhà trọ tên Châu là bạn của Lực, Lực điện thoại rủ Khang xuống, nên đề nghị Hội đồng xét xử xem vai trò của Khang mà xử phạt bị cáo ở mức 01 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra và truy tố đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo không khiếu nại gì về thủ tục tố tụng.

[2]. Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định được Trần Văn L và Nguyễn Thế Kh do quen biết nhau từ trước và bản thân các bị cáo có nghiện ma túy. Vào ngày 19/01/2020 các bị cáo Lực và Khang được một đối tượng tên Châu, không rõ họ và địa chỉ mang đến phòng trọ số 7, Nhà trọ Ngân Hùng, tại số 09, đường số 3, khu dân cư Vạn Phát, khu vực 3, Sông Hậu, phường Cái Khế, quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ 40 viên ma túy loại thuốc lắc, dạng viên nén màu hồng và cả hai bị cáo đã cất giữ số thuốc lắc này tại nhà trọ cho đến ngày 21/01/2020 thì bị cơ quan Công an kiểm tra, khám xét thu giữ và bắt giữ các bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thế Kh thừa nhận số thuốc lắc trên là do Châu mang đến cho bị cáo và bị cáo Lực cùng nhau cất giấu trong nhà trọ để sử dụng.

Đối với bị cáo Trần Văn L tại các biên bản khám xét, biên bản ghi lời khai và đối chất với bị cáo Khang ban đầu vào ngày 21/01/2020 ( Bút lục 13, 14, 65, 66, 104, 105…) thì thừa nhận số thuốc lắc ( ma túy) nêu trên do Châu đưa cho 02 bị cáo cùng cất giấu. Tuy nhiên các biên bản ghi lời sau không thừa nhận, mà cho rằng số ma túy nêu trên là của Khang cất giấu bị cáo không biết. Tại phiên tòa thì bị cáo Trần Văn L thừa nhận số ma túy nêu trên là do Châu đưa cho Khang cất giữ trong nhà trọ do bị cáo đứng tên thuê và bị cáo thống nhất cùng với Khang cất giấu để sử dụng. Bị cáo Lực cho rằng trong quá trình điều tra bị cáo chỉ không thừa nhận lời khai của bị cáo Khang là Châu đưa ma túy cho bị cáo, chứ bị cáo thừa nhận là bị cáo biết ma túy Châu đưa cho Khang cất giấu trong nhà trọ và bị cáo thống nhất cùng với khang cất giấu 40 viên ma túy nêu trên. Do đó căn cứ lời khai thừa nhận của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, phù hợp với lời khai người làm chứng, kết luận giám định và các chứng cứ khác có trong hồ sơ đã có đủ căn cứ xác định số ma túy nêu trên là do bị cáo Lực và bị cáo Khang cùng thống nhất cất giấu tàng trữ tại nhà trọ.

Tại Kết luận giám định số: 45/KL - PC09 ngày 22/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Cần Thơ, kết luận: 40 viên nén tròn màu hồng trong bọc nilon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 12,6131 gam, loại MDMA, Methylphenidate, Ketamine.

Tại Kết luận giám định số 5063/C09B, ngày 08/10/2020 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh xác định trong tổng số 10,2734 gam còn lại sau giám định trong bản kết luận giám định số 45/KL-PC, ngày 22/01/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự- Công an thành phố Cần Thơ thì khối lượng MDMA là 1,1824 gam và Ketamine là 0,0739 gam.

- Phân viện không có mẫu chuẩn Methylphenidate để giám định hàm lượng.

-Về khối lượng ban đầu đã được Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Cần Thơ trả lời trong bản Kết luận giám định số 45/KL-PC)(, ngày 22/01/2020 là 12,6131 gam.

Xét thấy, căn cứ các kết luận giám định về khối lượng và hàm lượng các chất ma túy, như nêu trên thì có 01 chất Methylphenidate chưa giám định được hàm lượng, tuy nhiên 03 chất này là chất ma túy ở thể rắn nằm trong danh mục các chất ma túy theo Nghị định số 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính Phủ, có tổng khối lượng qua giám định là 12,6131 gam. Do đó có đủ căn cứ để kết luận các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét thấy, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Tác hại của ma túy là rất lớn đối với đời sống sức khỏe cộng đồng, làm suy giảm sức lao động, sản xuất trong xã hội, ma túy là chất gây nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người sử dụng, nhất là tác hại của các loại ma túy ở thể rắn (Ma túy đá) hiện các bị cáo tàng trữ trong vụ án này. Ngoài ra, cũng từ nghiện ma túy mà mầm mống làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác, ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Nhà nước nghiêm cấm mọi việc tàng trữ, vận chuyển và mua bán,…các chất ma túy. Các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy cũng như biết rõ hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn thực hiện, nên phải có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội các của bị cáo, cần cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian tương đối mới đủ giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội. Các bị cáo cùng nhau thống nhất ý chí việc cất giấu ma túy, nên vai trò của các bị cáo là tương đương nhau.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo phần như có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa tiền án, tiền sự. Đối với bị cáo Khang có thêm tình tiết giảm nhẹ gia đình có chú, bác và bà Ngoại là người có công với cách mạng, hoàn cảnh gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền, địa phương, nên cần xem xét câm nhắc mức hình phat của Khang thấp hơn Lực.

Đối với người tên Châu giao ma túy cho bị cáo các bị cáo kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định của pháp luật.

[3].Về xử lý vật chứng: Xét đề nghị của Viện kiểm sát về đề nghị xử lý vật chứng là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.

[4]Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án [5]. Xét lời trình bày bào chữa của luật sư bảo vệ cho bị cáo Nguyễn Thế Kh về tội danh và nêu các tình tiết giảm nhẹ là có cơ sở, Hội đồng xét xử có xem xét cân nhắc trong quá trình nghị án. Tuy nhiên việc đề nghị xử phạt bị cáo ở mức 01 năm 06 tháng tù là chưa tương xứng với tính chất, mức độ và khối lượng ma túy mà các bị cáo phạm tội trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Trần Văn L Nguyễn Thế Kh phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

Căn cứ vào:

-Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự.

-Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn L 02 ( Hai) năm 06 ( Sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 21/01/2020.

Căn cứ vào:

-Điểm i Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1,2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự.

- Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

-Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế Kh 02 (Hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn phạt tù tính từ ngày 21/01/2020.

Về xử lý vật chứng:

-Tịch thu tiêu hủy 01 Gói niêm phong số 5603, ngày 08/10/2020 của C09B có chữ ký của người niêm phong Tô Văn Tông và người chứng kiến Trịnh Mạnh Cường;

01 quẹt gas; 01 đĩa sứ màu trắng; 01 cân tiểu ly, bình thủy tinh dùng để sử dụng ma túy; 10 ống hút nhựa; 50 gói nilon nẹp miệng rỗng bên trong là công cụ sử dụng trái phép chất ma túy.

- Trả lại bị cáo Nguyễn Thế Kh 01 điện thoại di động Iphone X màu Gold, đã qua sử dụng.

- Trả lại bị cáo Trần Văn L 01 điện thoại di động Iphone 6S (A1688) màu Gold, đã qua sử dụng.

- Tịc thu sung quỹ Nhà nước tiền Việt Nam 10.000 đồng theo biên lai thu tiền số 5353, ngày 21/4/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ;

-Kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục xác minh người tên Châu đã giao ma túy cho các bị cáo Lực và Khang để xử lý theo quy định của pháp luật.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Văn L và Nguyễn Thế Kh mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HSST ngày 09/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:181/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về