Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA-TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 181/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 27 tháng 07 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 229/2020/TLST- HNGĐ ngày 15/01/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/07/2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị H, sinh năm 1978.

Trú tại: 245/21 tổ 33, khu phố 5A, Phường L, Thành phố B, Tỉnh Đ.

2. Bị đơn: Ông Bùi Đức V, sinh năm 1974.

Trú tại: A6B, Khu phố 4, Phường T, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. ( Bà H, ông V có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện về việc ly hôn, bản tự khai của nguyên đơn Bà Lê Thị H trình bày: Bà H và Ông Bùi Đức V tự nguyện yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn năm 2000 tại Ủy ban nhân dân phường Tr, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Quá trình chung sống không hạnh phúc nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ và đã ly thân với nhau từ năm 2010 đến nay. Nay bà không còn tình cảm với ông V nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Có 02 con chung tên Bùi Lê T, sinh năm 2000 và Bùi Đức H, sinh ngày 28/04/2004. Bà H yêu cầu tòa án giải quyết cho bà được nuôi cháu H vì hiện cháu H đang sống ổn định với bà, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Đối với con chung Bùi Lê T đã trên 18 tuổi và có khả năng lao đông nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì lý do bận công việc bà H đề nghị Tòa án cho bà được vắng mặt tại phiên tòa xét xử.

*Ông V có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và có bản tự khai như sau: Ông V không đồng ý ly hôn. Ông V cũng thừa nhận ông và bà H sống ly thân gần 10 năm nay. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì ông đề nghị Tòa án giải quyết đề cho bà H nuôi con chung là Bùi Đức H, sinh ngày 28/04/2004, ông V không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có;

Về nợ chung: Không thiếu nợ ai.

Vì lý do bận công việc ông V đề nghị Tòa án cho ông được vắng mặt tất cả các buổi làm việc cũng như tại phiên tòa xét xử.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Hôn nhân giữa bà H và ông V là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà H có căn cứ.

Về con chung: Hiện các con chung là Bùi Lê T, sinh năm 2000 đã trường thành đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với cháu Bùi Đức H, sinh ngày 28/04/2004 hiện đang sống ổn định với bà H và nguyện vọng của cháu Hùng muốn sống với mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Hùng cho bà H chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời Ông Bùi Đức V không cấp dưỡng nuôi con.

Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Bùi Đức V cư trú tại Phường T, Thành phố Biên Hòa, Tỉnh Đồng Nai. Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho ông V về việc thụ lý vụ án, làm việc, hòa giải, công khai chứng cứ và tham gia phiên tòa. Ông V đã có bản tự khai và có đơn xin vắng mặt. Ngày 11/06/2020 Bà Lê Thị H có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử. Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà H và ông V chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tr, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của bà H thì vợ chồng chung sống với nhau không hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên gây gỗ nhau và đã sống ly thân từ năm 2010 đến nay. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với ông V để bà ổn định cuộc sống mới. Xét thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông V thật sự trầm trọng không thể hàn gắn được, bà H và ông V đã sống ly thân, Tòa án đã tạo điều kiện hòa giải hàn gắn đoàn tụ nhưng bà H cương quyết ly hôn không đồng ý đoàn tụ. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc ly hôn với ông V.

[3] Về con chung: bà H và ông V có 02 con chung là Bùi Lê T, sinh năm 2000 đã thành niên và Bùi Đức H, sinh ngày 28/04/2004 hiện cháu Hùng đang sống ổn định với bà H và nguyện vọng của cháu Hùng vlà muốn sống với mẹ nên Hội đồng xét xử giao cháu Hùng cho bà H chăm sóc giáo dục là phù hợp. Tạm thời Ông Bùi Đức V không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Các đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về nợ chung: Các đương sự khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, bà H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn.

[7] Ý kiến của Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử nên cần ghi nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 203, Điều 207 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 9,10,11,12 Luật Hôn nhân gia đình năm 2000; Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Áp dụng Điều 6; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Lê Thị H. Bà Lê Thị H được ly hôn với Ông Bùi Đức V.

2. Về con chung: Giao con chung là Bùi Đức H, sinh ngày 28/04/2004 cho Bà Lê Thị H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Tạm thời Ông Bùi Đức V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Bùi Đức V được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các đương sự được quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Lê Thị H phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà H đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự TP Biên Hòa, biên lai số 0007704 ngày 25/12/2019. Bà H đã nộp xong án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 27/07/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:181/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:27/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về