Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 181/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 245/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2020, về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 332/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Tuyết H, sinh năm 1991; cư trú tại: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Phan Hữu T, sinh năm 1988; cư trú tại: Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chi hội trưởng chi hội phụ nữ ấp TT, xã TD – Bà Phạm Ngọc H; cư trú tại:

Ấp TT, xã TD, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Chí H; cư trú tại: Ấp NN, xã TP, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

3. Ông Phạm Minh K; cư trú tại: Ấp Tân Trung, xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Tuyết H trình bày:

- Về hôn nhân: Anh chị chung sống với nhau vào năm 2012, không có đăng ký kết hôn; hôn nhân tự nguyện. Khoảng 01 năm gần đây thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh T tham gia các tệ nạn xã hội, có lần về hành hạ chị: dùng dây trói tay chị, lấy dao kề vào cổ chị. Nay chị H xin ly hôn với anh Phan Hữu T.

- Về con chung: Có 02 người con tên Phan Gia H, sinh ngày 01/12/2012 và Phan Gia Ha, sinh ngày 02/9/2014, do anh T đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị H đồng ý giao hai con cho anh T nuôi dưỡng, cấp dưỡng không đặt ra.

- Về tài sản chung: 01 phần đất được cha mẹ chồng cho năm 2014, hiện nay vẫn chưa sang tên quyền sử dụng, diện tích khoảng 10 công; 01 căn nhà trước, nhà sau xây dựng trên đất tại ấp TK, xã TD, huyện ĐD, giá trị nhà khi xây dựng khoảng 60.000.000đ; 01 tủ lạnh; 01 xe máy hiệu Future; 01 giường ngủ giá trị lúc mua khoảng 3.000.000đ – 4.000.000đ; 01 tủ ly và 01 tủ quần áo giá trị khoảng trên 7.000.000đ - 8.000.000đ. Các tài sản này chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ: Không có.

Anh Phan Hữu T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh xác định thời gian vợ chồng chung sống, việc không có đăng ký kết hôn, hôn nhân tư nguyện là đúng. Vợ chồng chung sống đến khoảng 2 – 3 năm gần đây thì phát sinh mâu thuẫn. Anh thừa nhận có tham gia các tệ nạn xã hội như chị H trình bày nhưng anh vẫn làm kiếm tiền, lo lắng cho gia đình. Việc hành hạ chị như trói chị H, lấy dao kề vào cổ chị là chủ yếu hù dọa chị. Anh đồng ý ly hôn chị H.

- Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung như chị H trình bày là đúng. Khi ly hôn, anh đồng ý nuôi 02 con và không yêu cầu cấp dưỡng.

- Về tài sản chung: Có các tài sản chung như chị H trình bày là đúng. Khi ly hôn, anh yêu cầu chia đôi tất cả các tài sản.

- Về nợ: Nợ vay 15.000.000đ của ông Phạm Minh K, nợ Chi hội phụ nữ ấp TT, xã TD 44.000.000đ, nợ ông Nguyễn Chí H 5.000.000đ.

Khi ly hôn, anh yêu cầu chia đôi tất cả các khoản nợ trên.

Chị Nguyễn Tuyết H trình bày: Chị không đồng ý yêu cầu chia đôi các khoản nợ như trình bày của anh T vì toàn bộ tài sản chung chị đều giao lại cho anh T hưởng, anh T có trách nhiệm trả toàn bộ.

Từ khi thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Phạm Minh K, ông Phạm Chí H và Chi hội trưởng chi hội phụ nữ ấp TT nhưng các đương sự trên vẫn vắng mặt và không có ý kiến giải trình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Tuyết H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Phan Hữu T, ông Phạm Minh K, ông Phạm Chí H và Chi hội trưởng Chi hội phụ nữ ấp TT, xã TD đã được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự trên là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Chị H và anh T chung sống với nhau vào năm 2012 trên tinh thần tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Theo khoản 1 Điều 14 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng...”. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị H và anh T.

[3] Về con chung: Chị H và anh T thống nhất giao cháu H và cháu Ha cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng, xét thấy: Từ khi anh chị ly thân đến nay, hai cháu sống chung với anh T, vẫn phát triển tốt về mặt thể chất lẫn tinh thần. Theo biên bản ghi nguyện vọng con chung ngày 08/6/2020 thể hiện cháu H có nguyện vọng sống chung với anh T. Mặt khác, tại biên bản hòa giải ngày 08/6/2020, chị H và anh T thống nhất giao cháu H và cháu Ha cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình, giao cháu H và cháu Ha cho anh Thế tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[4] Về tài sản chung: 01 căn nhà xây dựng trên đất tại ấp TK, xã TD, huyện ĐD; 01 tủ lạnh; 01 xe máy hiệu Future; 01 giường ngủ; 01 tủ ly và 01 tủ quần áo. Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[5] Về nợ: Nợ ông Phạm Minh K 15.000.000đ, nợ Chi hội phụ nữ ấp TT, xã TD 44.000.000đ, nợ ông Nguyễn Chí H 5.000.000đ. Các đương sự trên đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không yêu cầu Tòa án giải quyết liên quan đến các khoản nợ trên nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Trường hợp sau này giữa các đương sự có phát sinh tranh chấp được quyền khởi kiện thành vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 14 và khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Tuyết H.

1. Về hôn nhân: Không công nhận chị Nguyễn Tuyết H và anh Phan Hữu T là vợ chồng.

2. Về con chung: Giao cháu Phan Gia H, sinh ngày 01/12/2012 và cháu Phan Gia Ha, sinh ngày 02/9/2014 cho anh Phan Hữu T tiếp tục nuôi dưỡng.

Chị Nguyễn Tuyết H không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nôm con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Tuyết H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000đ theo biên lai số 0010631 ngày 14 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 10/08/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:181/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:10/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về