Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 181/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 06 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 290/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 4 năm 2020 về việc: “Tranh chấp Hôn nhân và gia đình”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 132/2020/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 128/2020/QĐST-DS ngày 12 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lý Kim N, sinh năm 1991 (Có đơn xin xét xử vắng mặt); Trú tại: Ấp R, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng G, sinh năm 1990 (Vắng mặt); Trú tại: Ấp R, xã L, huyện T, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Lý Kim N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng G chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời (Giấy chứng nhận kết hôn số: 58/2016, Quyển số: 01/2016, ngày 10/6/2016).

Quá trình chung sống, thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng thời gian về sau vợ chồng không còn hạnh phúc nữa. Nguyên nhân, do trong cuộc sống bất đồng quan điểm, dẫn đến cãi nhau. Nay, nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng đoàn tụ, nên yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng G.

Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên: Nguyễn Quốc D, sinh ngày 06/02/2011 (Giới tính: Nam) và Nguyễn Trọng P, sinh ngày 05/6/2013 (Giới tính: Nam). Hiện, các cháu do chị và anh G trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng. Khi, ly hôn chị yêu cầu Tòa án xem xét nguyện vọng của các cháu có nguyện vọng sống chung với ai thì người đó có trách nhiệm nuôi dưỡng. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời, chị yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định.

Đi với bị đơn anh Nguyễn Hoàng G: Khi thụ lý, Tòa án đã thực hiện thủ tục niêm yết đúng theo quy định, như: Thông báo về việc thụ lý vụ án; Các thông báo tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Giấy triệu tập; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa; Nhưng, anh G vắng mặt, không có văn bản nêu ý kiến gửi đến Tòa án.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án ghi nhận ý kiến cháu Nguyễn Quốc D, Nguyễn Trọng P có nguyện vọng được sống chung với chị Lý Kim N.

Vụ án đã được Tòa án tiến hành công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được, do bị đơn vắng mặt.

Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bảo lưu ý kiến tại đơn khởi kiện và bản tự khai giao nộp cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp được xác định là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình”. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Trần Văn Thời; Nên, thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời. Theo, quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Do bị đơn vắng mặt; Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt; Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là phù hợp.

[3] Chị N và anh G tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Lợi An, huyện Trần Văn Thời, đây là hôn nhân hợp pháp. Chị N và anh G chung sống không hạnh phúc do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không quan tâm chăm sóc đến nhau và không có biện pháp hàn gắn hạnh phúc gia đình. Tòa án đã thông báo và triệu tập anh G tham gia các phiên hòa giải nhằm giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng anh G vắng mặt và không tham gia tố tụng; Không có văn bản thể hiện ý kiến của mình trước đơn yêu cầu khởi kiện của chị N. Như vậy, anh G đã không quan tâm đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình với chị N. Theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và có nghĩa vụ chung sống với nhau. Xét, mâu thuẫn giữa chị N và anh G đã trầm trọng, không thể hàn gắn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị N có căn cứ chấp nhận theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Chị N và anh G có 02 người con chung tên: Nguyễn Quốc D, sinh ngày 06/02/2011 (Giới tính: Nam) và Nguyễn Trọng P, sinh ngày 05/6/2013 (Giới tính: Nam). Hiện, các cháu do chị N và anh G trực tiếp, chăm sóc nuôi dưỡng. Chị N, có yêu cầu được nuôi dưỡng các cháu và không có yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với, anh G cũng không có ý kiến yêu cầu được nuôi con chung, nên không có cơ sở xem xét. Đối với cháu Đ và cháu P có nguyện vọng được sống chung chị N. Còn, chị N cũng thống nhất với nguyện vọng của các cháu. Do đó, Hội đồng xét xử xét, vì lợi ích của con chung, đảm bảo sự ổn định trong cuộc sống và nguyện vọng của các cháu, nên cần giao các cháu cho chị N được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ tuổi thành niên. Phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Do, anh G cố tình vắng mặt; Không có ý kiến trình bày. Chị N, xác định giữa chị và anh G không có tài sản chung và không có nợ ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết. Trường hợp, các bên đương sự có tranh chấp về chia tài sản và nợ chung sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[6] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc chị N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Đối trừ số tiền 300.000 đồng mà chị N đã dự nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003580 ngày 28/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, chị N đã dự nộp xong.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 235; Điều 238; Điều 273; Điều 483 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng: Điều 19; khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 26 Luật thi hành án dân sự năm 2008; Điều 6; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho chị Lý Kim N được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng G.

2. Về con chung: Giao 02 người con chung tên: Nguyễn Quốc D, sinh ngày 06/02/2011 (Giới tính: Nam) và Nguyễn Trọng P, sinh ngày 05/6/2013 (Giới tính:

Nam) cho chị Lý Kim N được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Không đặt ra việc cấp dưỡng.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở. Trường hợp, bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định của pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Khi thấy cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết. Trường hợp, các bên đương sự có tranh chấp về chia tài sản và nợ chung sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí: Buộc chị Lý Kim N phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Đối trừ số tiền 300.000 đồng mà chị N đã dự nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003580 ngày 28/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời (Chị N đã dự nộp xong).

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

6. Về nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:181/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về