Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 03/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C M, TNH AN GIANG

BẢN ÁN 181/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 03 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện CM xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 270/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 356/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 346/2020/QĐST-HNGĐ ngày 12 táng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức V, sinh năm 1981; địa chỉ: số 175/7, ấp T1, thị trấn CM, huyện CM, tỉnh An Giang (có mặt).

Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Bảo Q, sinh năm 1986; địa chỉ: ấp T1, thị trấn CM, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai nguyên đơn ông Nguyễn Đức V trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị Bảo Q cưới nhau vào năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân thị trấn CM, hôn nhân do ông bà tự tìm hiểu và được cha mẹ đồng ý. Vợ chồng chung sống đến cuối năm 2018 thì mâu thuẫn nguyên nhân là do tính tình không hợp, thường hay cãi nhau nên vợ chồng sống ly thân từ cưới năm 2018 đến nay. Thấy tình cảm không còn ông yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Bảo Q. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Đức Gia H, sinh ngày 08/01/2011 và Nguyễn Khánh T, sinh ngày 15/01/2013 hiện nay đang sống với cha. Sau khi ly hôn ông V yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu vợ cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung: không có; về nợ chung: không có.

Bị đơn bà Nguyễn Thị Bảo Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vắng mặt không rõ lý do. Nên Tòa án không ghi nhận ý kiến của bà Q về nội dung đơn khởi kiện của ông V.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Ông Nguyễn Đức V yêu cầu ly hôn với bà Nguyễn Thị Bảo Q. Bà Q có nơi cư trú tại ấp T1, thị trấn CM, huyện CM, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện CM thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bà Nguyễn Thị Bảo Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Đức V và bà Nguyễn Thị Bảo Q xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2009 đến năm 2015 có đăng ký kết hôn kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Ông, bà chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo ông V trình bày vợ chồng mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, tính tình không họp vợ chồng không tôn trọng nhau nên đã sống ly thân cho đến nay. Ông V xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn. Bà Nguyễn Thị Bảo Q đã được tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc ông V khởi kiện yêu cầu ly hôn và thông báo đến tòa án tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Điều này thể hiện vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Đức V là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về quan hệ con chung: Ông V xác định vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Đức Gia H, sinh ngày 08/01/2011 và Nguyễn Khánh T, sinh ngày 15/01/2013 hiện nay ông đang trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Ông V yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu vợ cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ lúc vợ chồng ly thân đến nay ông V là người trực tiếp nuôi con chung nên tình cảm, tâm tư gắn liền với người nuôi dưỡng. Hơn nữa trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành ghi nhận ý kiến của con chung. Qua ghi nhận cháu Nguyễn Đức Gia H và Nguyễn Khánh T đều có nguyện vọng muốn tiếp tục sống với cha. Do đó cần để ông Nguyễn Đức V tiếp tục nuôi 02 con chung là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình cũng như nguyện vọng của con.

Do ông Nguyễn Đức V không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Nguyễn Đức V trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về quan hệ nợ chung: ghi nhận ý kiến của ông Nguyễn Đức V trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Ông Nguyễn Đức V phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 146, 147, 227, 235 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và Điều 84, Luật hôn nhân và gia đình 2014.

- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức V và xử như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ông Nguyễn Đức V được ly hôn với bà Nguyễn Thị Bảo Q. Giấy chứng nhận kết hôn số 11 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân thị trấn CM, huyện CM, tỉnh An Giang cấp ngày 05 tháng 02 năm 2010 không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Đức V được tiếp tục nuôi con tên Nguyễn Đức Gia H, sinh ngày 08/01/2011 và Nguyễn Khánh T, sinh ngày 15/01/2013, bà Nguyễn Thị Bảo Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Đức V cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở bà Nguyễn Thị Bảo Q trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: ghi nhận ông Nguyễn Đức V trình bày không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận ông Nguyễn Đức V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì ông Nguyễn Đức V và bà Nguyễn Thị Bảo Q vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Ông Nguyễn Đức V phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008239 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện CM, tỉnh An Giang cấp ngày 21 tháng 4 năm 2020. Ông V đã nộp đủ.

Ông Nguyễn Đức V được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Nguyễn Thị Bảo Q được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2020/HNGĐ-ST ngày 03/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:181/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về