Bản án 181/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 181/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 193/2019/TLST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 196/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Chí T, sinh ngày 19/3/1996. Tại: Đồng Tháp. Nơi ĐKHKTT: Ấp TA, xã TL, Huyện TB, tỉnh Đồng Tháp. Trình độ học vấn: 01/12. Nghề nghiệp: Làm thuê; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Văn P và bà Nguyễn Thị Mỹ P1; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 26/5/2019 và tạm giam cho đến nay; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 25/5/2019, Lê Chí T cùng với bạn Nguyễn Hoàng H, sinh năm 1997, hộ khẩu thường trú tại xã TL, Huyện TB, tỉnh Đồng Tháp và một người bạn tên A, khoảng 23 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể) ngồi nhậu cùng nhau tại quán nhậu (không rõ tên quán) ở Vòng xoay AP, thị xã T, tỉnh Bình Dương. Trong quá trình ngồi nhậu thì A hỏi T có sử dụng ma túy không thì T đồng ý, lúc này A nói với T chút có người đưa ma túy cho và ra về, còn H và T tiếp tục ngồi lại nhậu. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày (25/5/2019), H tính tiền ra về. Khi H và T đi được khoảng 200 mét thì có 01 thanh niên đeo khẩu trang bịt mặt chạy xe mô tô (không rõ nhãn hiệu, biển số) chạy phía sau xe mô tô, biển số 68S1-001.xx của H và T và kêu tên T, T nghe thấy người kêu tên mình thì nói H dừng xe mô tô lại. Sau khi dừng xe thì H đi vệ sinh, còn T hỏi nam thanh niên đeo khẩu trang có gì không thì người nam này nói gói thuốc lá giá 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng). T nghe vậy thì hiểu là trong gói thuốc lá có ma túy đá nên T đưa cho người nam này số tiền 220.000 đồng (Hai trăm hai mươi nghìn đồng), người nam nhận tiền và đưa lại cho T 01 gói thuốc lá hiệu Jet bên trong có chứa ma túy và điều khiển xe mô tô đi. Cùng lúc, T cầm gói thuốc lá có chứa ma túy trên tay phải. Ngay lúc này, H đi đến và tiếp tục điều khiển xe mô tô, biển số 68S1-001.xx chở T về huyện H, thành phố Hồ Chí Minh. Đến 01 giờ 00 phút, ngày 26/5/2019, khi H điều khiển xe mô tô chở T đang đi trên đường Đại lộ Bình Dương thuộc phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương thì bị Công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương kiểm tra, phát hiện bắt quả tang Lê Chí T đang cầm trên tay 01 (một) gói thuốc Jet, bên trong có 01 thẻ nạp điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng được dán chung 01 gói nylon, miệng hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng, tang vật thu giữ: 01 (một) gói thuốc Jet, bên trong có 01 thẻ nạp điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng được dán chung 01 gói nylon, miệng hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng.

Ngày 26/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ra Quyết định trưng cầu giám định số 386/QĐ-CQ.CSĐT gửi đến Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương để: Giám định thành phần chất ma túy trong: 01 phong bì thu được niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lê Chí T, có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Thành P và hình dấu tròn đỏ của Công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương, bên trong bì thư có: 01 gói nylon, miệng hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng;

Ngày 29/5/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương có bản kết luận giám định số 416/MT-PC09, cụ thể: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nylon, miệng hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng trong 01 phong bì thư được niêm phong có chữ ký của người bị bắt Lê Chí T, có chữ ký của cán bộ niêm phong Nguyễn Thành P và hình dấu tròn đỏ của Công an phường H, thành phố M, tỉnh Bình Dương là ma túy, trọng lượng 0,1602 gam, loại Methamphetamine.

Đối với 01 gói nylon, miệng hàn kín, bên trong chứa tinh thể màu trắng, trọng lượng sau giám định 0,1197 gam đã thu giữ của Lê Chí T. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thủ Dầu Một đề nghị xử lý theo quy định.

Đối với Nguyễn Hoàng H đã có hành vi chở Lê Chí T trong lúc Lê Chí T tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra xác định, việc T mua ma túy và cất giấu ma túy để sử dụng, H hoàn toàn không biết vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Hoàng H. Đối với người nam đã bán trái phép chất ma túy cho Lê Chí T do không rõ nhân thân, lai lịch cụ thể nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Thủ Dầu Một không có căn cứ để xem xét, xử lý.

Cáo trạng số 207/CT-VKS-HS ngày 17/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Lê Chí T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù. Về biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Chí T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành P và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy và 01 thẻ nạp điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng được dán chung, trọng lượng sau giám định 0,1197 gam.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Ngày 26/5/2019, Lê Chí T có hành vi cất giữ trong người 0,1602 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ...c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;”. Như vậy, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý của Nhà nước đối với chất ma túy. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội, một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn này chưa được đẩy lùi chính là có sự tiếp tay của bị cáo. Do đó, để có tác dụng giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không biết chữ nên khả năng nhận thức pháp luật có phần hạn chế. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[6] Về biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Chí T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành P và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy và 01 thẻ nạp điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng được dán chung, trọng lượng sau giám định 0,1197 gam.

[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Chí T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2/ Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Chí T 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26/5/2019.

3/ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có dấu vân tay người bị bắt Lê Chí T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành P và hình dấu đỏ công an phường H, thành phố M, bên trong chứa 01 gói nylon chứa ma túy và 01 thẻ nạp điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng được dán chung, trọng lượng sau giám định 0,1197 gam (theo kết luận giám định số 416/MT-PC09 ngày 29/5/2019).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 180.19 ngày 18/9/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự và và Công an thành phố Thủ Dầu Một).

4/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 181/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:181/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về