TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 181/2017/HSST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB
Trong ngày 23 tháng 11 năm 2017 tại hội trường xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 158/2017/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Mạnh C1 – Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 02/10/1986 tại thành phố P, tỉnh Quảng Ninh;
Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Khu A, phường S, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không.
Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lái xe
Con ông: Nguyễn Đức T1, sinh năm 1954 và bà: Phạm Thị N, sinh năm 1957.
Có vợ là chị Vũ Huyền H3, có hai con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015.
Tiền án, tiền sự: Không.
Đầu thú ngày 17/6/2017, bị tạm giam đến ngày 03/10/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại- có mặt.
*Người bị hại:
- Anh Nghiêm Trọng Đ, sinh năm 1989. Nơi ĐKNKTT: Phố T, phường B, thành phố D. Chỗ ở hiện nay: Tập thể Cửa hàng xăng dầu O, phường C, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh- có mặt.
- Anh Đinh Ngọc S (đã chết).
+ Người đại diện hợp pháp của người bị hại Đinh Ngọc S: Ông Đinh Văn C2, sinh năm 1942 và bà Bùi Thị C3, sinh năm 1946 (là bố mẹ đẻ của anh S); Chị Đỗ Thanh T2, sinh năm 1972 (là vợ anh S); Cháu Đinh Ngọc H1, sinh năm 1994 (là con của anh S); Đều trú tại: Tập thể N, Tr, quận Q, thành phố Hải Phòng.
+ Người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp của người bị hại: Anh Đinh Ngọc G, sinh năm 1969. Trú tại: Tập thể N, Tr, quận Q, thành phố Hải Phòng- có đơn xin xử án vắng mặt.
* Nguyên đơn dân sự: Công ty TNHH thương mại vận tải PTR. Địa chỉ trụ sở: Phường CB, quận AH, thành phố Hải Phòng.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Nguyễn Văn T3, sinh năm 1972 - Chức vụ: Trưởng phòng vận tải công ty TNHH thương mại vận tải PTR- có đơn xin xử án vắng mặt.
* Bị đơn dân sự: Công ty cổ phần khai thác khoáng sản và dịch vụ I. Địa chỉ trụ sở: Đường L, phường G, thành phố R, tỉnh Quảng Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền: Anh Phạm Anh H2, sinh năm 1981- Chức vụ: Quản đốc phân xưởng vận tải Công ty cổ phần khai thác khoáng sản và dịch vụ I - có mặt.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Vũ Huyền H3; sinh năm 1991; trú tại: Khu A, phường S, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh- có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Nguyễn Mạnh C1 bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Nguyễn Mạnh C1 (có giấy phép lái xe hạng C) lái xe thuê cho Công ty cổ phần khai thác khoáng sản và dịch vụ I (gọi tắt là công ty I). Sáng ngày 17/6/2017, C1 điều khiển xe ô tô tải nhãn hiệu Howo biển số 14C-160.77 của Công ty I, đ theo hướng từ Cửa Ông vào đường nội thị phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, để vào khai trường Xí nghiệp than Tân Lập vận chuyển than. Khoảng 9 giờ 38 phút cùng ngày, C1 điều khiển xe đến đoạn đường tỉnh lộ 329, thuộc tổ 2, khu 4, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, là đoạn đường vòng, có biển cảnh báo nguy hiểm, mặt đường ướt do mưa, Cường điều khiển xe đi với vận tốc khoảng trên 60km/h và đi sang phần đường bên trái. Phát hiện thấy xe ô tô xitéc biển số 15C- 185.56 của Công ty TNHH thương mại vận tải PTR (gọi tắt là công ty PTR) do anh Đinh Ngọc S điều khiển, trên xe có anh Nghiêm Trọng Đ, đang đi ngược chiều đến, C1 xử lý phanh và đánh lái sang sang bên phải. Do C1 điều khiển xe đi chiếm phần đường của xe ngược chiều, không giảm tốc độ đảm bảo an toàn khi đi qua đoạn đường vòng, trơn ướt, nên thành phía sau bên trái xe ô tô do C1 điều khiển đã văng, đập vào cabin xe ô tô biển số 15C-185.56, gây ra tai nạn. Hậu quả: Anh Đinh Ngọc S bị tử vong trên đường đi cấp cứu, xe ô tô biển số 15C-185.56 bị hư hỏng.
Sau khi gây tai nạn, Nguyễn Mạnh C1 đã đến Công an thành phố Cẩm Phả đầu thú.
Kết quả khám nghiệm hiện trường thể hiện: Nơi xảy ra tai nạn tại đoạn đường tỉnh lộ 329, thuộc tổ 2, khu 4, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả. Trời mưa, mặt đường ướt; Nạn nhân được đưa đi cấp cứu, các phương tiện còn nguyên vẹn; Mặt đường rộng 13 mét, vào cua bên phải theo chiều Hạ Long – Tiên Yên; Trước vị trí tai nạn khoảng 400 mét theo chiều Hạ Long – Tiên Yên có biển cảnh báo nhiều chỗ ngoặt nguy hiểm liên tiếp. Mốc xác định là trục bánh trước bên phải xe ô tô 15C-185.56 đến đầu cầu trạm điện là 5 mét. Các số đo dấu vết, phương tiện được lấy vào mép đường bên phải theo chiều Tiên Yên- Hạ Long như sau:
+ Xe ô tô biển số 15C-185.56 đỗ bên trên phần đường Tiên Yên đi Hạ Long, đuôi xe quay hướng Tiên Yên. Trục lốp trước bên phải cách mép đường 0,8m, trục lốp sau bên phải cách mép đường 1,9m; Vết phanh của xe ô tô 15C-185.56 dạng đơn, chiều Tiên Yên đi Hạ Long, dài 4,9m. Đầu vết phanh cách mép đường 1,9m, cuối vết trùng với lốp trước bên phải xe.
+ Xe ô tô biển số 14C-160.77 đỗ phần nhiều bên phần đường Tiên Yên đi Hạ Long, đầu xe quay hướng Tiên Yên, đuôi xe quay hướng Hạ Long. Trục lốp trước bên trái cách mép đường 3,8m, trục lốp sau bên trái cách mép đường 4m; Trục lốp sau bên trái cách trục lốp trước bên trái xe ô tô 15C-185.56 là 1,6m.
+ Mảnh vỡ hỗn hợp, mặt nạ của xe 15C-185.56 và bùn đất mầu đen có diện (3,8x2,8)m, tâm diện cách mép đường 2,9m.
Kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông:
+ Xe ô tô tải Howo biển số 14C-160.77: Gương cầu dưới trước bên trái xô lệch, mặt gương quay vào trong, vỡ tay gương, dưới vị trí này dính chất lạ mầu xanh, điểm thấp nhất cách đất 2,02 mét; Má ngoài trụ bản lề cửa trước bên trái trượt xước diện (15x6)cm, chiều trước về sau, trên diện dính chất lạ mầu đỏ, điểm thấp nhất cách đất 1,85 mét; Vỡ toàn bộ cụm đèn pha xi nhan bên trái; Mép ngoài bađờsốc trước bên trái xô lệch trước về sau, ngoài vào trong; Thành thùng sau bên trái trượt xước, bẹp móp diện (164x184)cm, trên diện dính chất lạ màu trắng, điểm xước cao nhất cách đất 3 mét; Mép dưới thành thùng xe bên trái trượt xước, bẹp móp diện (1,38x10)cm, trên diện dính phoi tơ nhựa mầu trắng, gân dạng vẩy rắn, chiều trước về sau; Chắn bùn lốp sau bên trái trượt xước, bẹp móp diện (134x8)cm, trên diện dính gương kính vỡ; Mép ngoài lazăng lốp sau cùng bên trái bẹp móp, tỳ đẩy ngoài vào trong 7cm, diện bép móp (20x10)cm. Tâm diện cách chân van 50cm…
+ Xe ô tô xitec biển số 15C-185.56: cabin xe màu trắng, phần téc sơn đỏ, chữ số màu xanh. Toàn bộ cabin bẹp móp hướng nhiều về bên trái, chiều trước về sau, ngoài vào trong, điểm đẩy cao nhất cách mép trước téc 153cm, điểm đẩy gần nhất cách mép téc 121cm; Gãy rời nắp capô, lộ thân máy; Điểm xước cao nhất của cabin cách đất 2,97 mét; Tung rời cánh cửa bên lái; mặt trước bađờsốc bên trái tỳ đẩy in hình vòng cung, điểm cao nhất vòng cung cách mặt đất 1,12 mét; Hệ thống ba dọc lái tỳ đẩy trước về sau kéo theo 2 lốp bên lái (lốp trước và lốp sau thứ 2 từ trên xuống) ở trạng thái hướng từ trong ra ngoài; Dè chắn bùn sau bên trái tỳ đẩy bẹp móp diện (129x10)cm, chiều từ trước về sau; Toàn bộ táp lô cabin bị đẩy trước về sau, từ trái sang phải, bị hư hỏng toàn bộ; Phần lưng bên trái téc có vết mất sơn màu xanh ở chữ số 5, điểm thấp nhất cách đất 2,2 mét; Vết mất sơn màu đỏ ở dưới vị trí này thấp nhất cách đất 1,9 mét.
Trích thiết bị định vị GPS thể hiện: thời điểm 9 giờ 38 phút ngày 17/6/2017, xe ô tô biển số 14C-160.77 chạy với vận tốc 58 đến 71 km/h.
Tại biên bản khám nghiệm tử thi ngày 17/6/2017 và Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 78 ngày 20/6/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, kết luận: anh Đinh Ngọc S tử vong do chấn thương ngực kín.
Bản kết luận định giá tài sản số 84 ngày 28/7/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cẩm Phả, xác định giá trị thiệt hại của xe ô tô biển số 15C-185.56 là 170.533.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 166/KSĐT-HS ngày 04/10/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Nguyễn Mạnh C1 về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả giữ nguyên quan điểm truy tố nhưng cho rằng bị cáo được hưởng quy định có lợi cho người phạm tội nên hành vi của bị cáo chỉ phạm vào điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó đề nghị áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7, điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C1 từ 02 năm 06 tháng tù đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Ngoài ra còn đề nghị trả lại bị cáo một giấy phép lái xe.
Tại phiên tòa, bị cáo C1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, người bị hại Nghiêm Trọng Đ có lời khai thể hiện: Khi xe ô tô do anh Đinh Ngọc S điều khiển chuẩn bị vào đoạn cua, anh S giảm tốc độ đi đúng phần đường. Anh nhìn thấy một xe ô tô tải đi ngược chiều với tốc độ nhanh, lấn sang phần đường của xe anh S. Khi đến gần xe ô tô của anh S thì người điều khiển xe tải này phanh lại và va chạm với xe của anh S. Anh và anh S được mọi người đưa đi cấp cứu.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác...
XÉT THẤY
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh C1 có lời khai phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra về việc sáng ngày 17/6/2017 đã điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 14C-160.77 va chạm vào xe ô tô biển kiểm soát 15C-185.56 đi ngược chiều tại khu vực phường Mông Dương, Cẩm Phả, Quảng Ninh, gây thiệt hại về người và tài sản.Hội đồng xét xử đánh giá lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của người làm chứng Đoàn Đức H4, người bị hại Nghiêm Trọng Đ về thời gian, địa điểm, diễn biến xảy ra vụ tai nạn; phù hợp với sơ đồ hiện trường, kết quả khám nghiệm hiện trường, kết quả khám nghiệm các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông, trích thiết bị định vị GPS, biên bản khám nghiệm tử thi… để xác định nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn là do bị cáo vi phạm khoản 1 Điều 9, khoản 1 Điều 12 Luật giao thông đường bộ; các khoản 1, 2, 3 Điều 5 Thông tư số 91/2015/TT-BGTVT ngày 31/12/2015 của Bộ giao thông vận tải. Cụ thể, bị cáo đã chủ quan cho rằng trời mưa, đường vắng nên đã lái xe với tốc độ nhanh, khi vào cua đã lấn chiếm sang phần đường của xe ngược chiều để mở rộng tầm nhìn. Khi phát hiện xe ô tô do anh S điều khiển đi ngược chiều, bị cáo đã phanh xe và đánh lái sang phải để tránh nên thành phía sau bên trái xe ô tô do bị cáo điều khiển đã văng đập vào cabin xe ô tô của anh S. Hậu quả của vụ tai nạn làm anh S bị tử vong, anh Điệp bị xây sát nhẹ, xe ô tô BKS 15C-185.56 bị hư hỏng, thiệt hại trị giá 170.533.000 đồng.
Với các chứng cứ nêu trên, kết hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 38 phút ngày 17/6/2017, tại đoạn đường tỉnh lộ 329, thuộc tổ 2, khu 4, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Mạnh C1 đã có hành vi điều khiển xe ô tô tải biển số 14C-160.77, đi không đúng phần đường quy định; Mặc dù có biển cảnh báo nguy hiểm, nhiều chỗ ngoặt liên tiếp, và thực tế trời đang mưa, đường trơn trượt nhưng Cường không giảm tốc độ đến mức an toàn nên đã va chạm với xe ô tô đi ngược chiều làm một người chết, thiệt hại về tài sản trị giá 170.533.000 đồng.
Hành vi nêu trên của bị cáo C1 đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Đối chiếu hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra với hướng dẫn tại điểm b khoản 2 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013, thấy rằng bị cáo đã “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, đây là tình tiết định khung theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.
Tại điểm đ khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội quy định: Các tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”… của Bộ luật hình sự năm 1999 đã được áp dụng để khởi tố bị can trước 0 giờ 00 phút ngày 01 tháng 01 năm 2018 thì vẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Do đó Hội đồng xét xử không có căn cứ áp dụng điểm b khoản 1, điểm h khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7, điểm a, d khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự năm 2015 như đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, đã xâm phạm an toàn, trật tự công cộng, gây tổn hại cho tính mạng, tài sản của công dân. Bị cáo là người đã trưởng thành, đã được học và được cấp giấy phép lái xe theo quy định. Bị cáo hiểu rất rõ khi tham gia giao thông phải tuân thủ các quy định của Luật giao thông đường bộ để đảm bảo an toàn cho tính mạng, sức khỏe và tài sản của công dân, nhưng do ý thức chấp hành pháp luật kém nên đã dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng trên. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây nên, Hội đồng xét xử thấy cần có mức hình phạt nghiêm khắc để trừng trị hành vi phạm tội của bị cáo và làm gương cho người khác.
Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng xem xét bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng; Sau khi phạm tội đã ra đầu thú, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Bố bị cáo là ông Nguyễn Đức T1 tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc màu da cam; vợ chồng bị cáo hiện đang nuôi dưỡng người chị ruột bị di chứng chất độc màu da cam từ bố. Mặc dù hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng bị cáo ý thức được hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra nên đã tích cực tác động đến gia đình và công ty trong việc thăm hỏi, bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại Sơn cũng như sửa chữa, khắc phục hậu quả cho xe ô tô của Công ty PTR. Đến nay công ty PTR đã đưa xe ô tô vào hoạt động bình thường, gia đình người bị hại Sơn có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Cường. Vì vậy được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự. Xét thấy chưa cần thiết phải cách ly khỏi xã hội mà cho cải tạo tại địa phương cũng đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Về trách nhiệm dân sự:
Anh Nghiêm Trọng Đ bị chấn thương xây sát nhẹ, từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.
Quá trình điều tra, bị cáo đã tác động đến gia đình và Công ty I bồi thường cho gia đình người bị hại Sơn số tiền 270.000.000 đồng, trong đó chị Vũ Huyền H3 (vợ bị cáo) đã tự nguyện bồi thường số tiền 100.000.000 đồng; Công ty I đã hỗ trợ bồi thường số tiền 170.000.000 đồng. Nay gia đình anh S không có yêu cầu gì thêm; chị Hường và Công ty I không có yêu cầu bị cáo Cường phải hoàn trả số tiền đã bồi thường nên không đề cập giải quyết.
Đối với chiếc xe ô tô biển kiểm soát 15C-185.56 của Công ty PTR bị hư hỏng, thiệt hại trị giá 170.533.000 đồng. Công ty I đã nhận trách nhiệm sửa chữa, khôi phục lại chiếc xe này như hiện trạng ban đầu. Nay công ty PTR đã nhận lại xe và đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, không có yêu cầu gì thêm; công ty I không yêu cầu bị cáo C1 phải hoàn trả lại số tiền trên nên không đề cập giải quyết.
Đối với chiếc xe ô tô BKS 14C-160.77 của Công ty I bị hư hỏng nhẹ, công ty I tự sửa chữa, không yêu cầu bị cáo C1 phải bồi thường nên không đề cập giải quyết.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trả 01 xe ô tô biển số 14C-160.77; trả 01 xe ô tô biển số 15C-085.56 và giấy tờ liên quan cho các chủ sở hữu nên không đề cập giải quyết.
Quá trình điều tra đã thu giữ 01 giấy phép lái xe của bị cáo. Xét thấy đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Mạnh C1 phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.
Áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 202; Điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; khoản 1 khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm đ khoản 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc Hội.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Mạnh C1 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 (sáu mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân phường S, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.
Trả lại cho bị cáo 01 (một) giấy phép lái xe số 310095000426 mang tên Nguyễn Mạnh C1, do Sở Giao thông vận tải thành phố Hải Phòng cấp ngày 29 tháng 11 năm 2012 (có kèm theo hồ sơ vụ án).
Căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Mạnh C1 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người bị hại Nghiêm Trọng Đ, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn dân sự là anh Phạm Anh H2, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là chị Vũ Huyền H3, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của người đại diện hợp pháp của người bị hại anh Đinh Ngọc G; người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự là anh Nguyễn Văn T3, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 181/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB
Số hiệu: | 181/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/11/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về