Bản án 180/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 180/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 172/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 223/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Thu T; giới tính: Nữ; sinh năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú: 581A đường D, Phường X, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 157/50 đường T, Phường Z, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh); nghề nghiệp: làm công; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Long V và bà Ngô Thị Bích T; sống chung như vợ chồng với Võ Minh T (không đăng ký kết hôn) có 02 con.

Tiền án: Ngày 09/4/2015, bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 06 tháng tù về tội “Trốn khi đang bị dẫn giải”, tổng hợp hình phạt buộc chấp hành chung là 03 năm tù. Chấp hành xong án phạt tù ngày 20/9/2017. Tiền sự: Không.

Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/6/2020, đến ngày 09/6/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang biện pháp “Bảo lĩnh”, (có mặt)

- Bị hại:

Chị Nguyễn Thị Mỹ C, sinh năm: 1981; nơi cư trú: (Hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh L; chỗ ở: 1953/21 đường H, Phường K, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh), (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 11/2017, Nguyễn Thị Thu T xin làm công tại tiệm uốn tóc AH của chị Nguyễn Thị Mỹ C ở số 2049 Đường H, Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng tháng 5/2018, chị C được anh ruột là Nguyễn Văn P đưa cho giữ giúp số tiền 130.000.000 đồng, trong quá trình cất giữ chị C có lấy ra 15.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân. Trong lúc làm việc, T thấy chị C lấy số tiền trên cất vào lọ thủy tinh có nắp màu xanh rồi bỏ vào túi nylon màu đen và để vào ngăn tủ gỗ ở trong tiệm, còn chìa khóa tủ để ở túi nylon màu đỏ treo trên khoen móc, cách cửa ra vào khoảng 4m. Do cần tiền tiêu xài, T nảy sinh ý định trộm cắp số tiền trên. Thực hiện ý định, từ khoảng cuối tháng 7/2018, T đến tiệm uốn tóc AH lúc sáng sớm, và lợi dụng lúc tiệm uốn tóc không có người, T nhiều lần lấy chìa khóa mở tủ trộm cắp tiền của chị C. Lần đầu, T lấy trộm 500.000 đồng, lần thứ hai T tiếp tục lấy trộm 1.000.000 đồng nhưng không thấy chị C phát hiện nên những lần sau đó T lấy trộm từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng, lần cuối cùng T lấy trộm toàn bộ số tiền còn lại là 75.000.000 đồng rồi vứt bỏ bịch nylon cùng lọ thủy tinh vào sọt rác ở phía trước cửa tiệm. Tổng số tiền T chiếm đoạt của chị C là 115.000.000 đồng. Có được tiền, T mua 01 sợi dây chuyền vàng và tiêu xài cá nhân, số tiền trộm cắp được còn lại là 6.800.000 đồng. Đến ngày 19/8/2018, chị C mở tủ kiểm tra thì phát hiện mất toàn bộ số tiền 115.000.000 đồng, chị C nghi ngờ T là người lấy trộm tiền nên chị C đến Công an Phường 6, Quận 8 trình báo, giao nộp 01 ổ khóa kim loại và 03 chìa khóa đã qua sử dụng. Qua truy xét, Công an tạm giữ của Nguyễn Thị Thu T số tiền 6.800.000 đồng và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại, màu trắng, dài khoảng 48cm. Sau đó, toàn bộ vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra làm rõ.

Ngày 05/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Thị Thu T, về tội “Trộm cắp tài sản”. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Thu T đã khai nhận toàn bộ hành vi trên. Lời khai của T phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: chị Nguyễn Thị Mỹ C yêu cầu T bồi thường số tiền 115.000.000 đồng.

Vật chứng:

- Số tiền 6.800.000 đồng thu giữ của T là là số tiền còn lại trong tổng số tiền 115.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt của bị hại C; 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng, dài khoảng 50cm, qua giám định có trọng lượng 2,103 chỉ, hàm lượng vàng 61,72 %Au (vào ngày 08/9/2020 giá vàng bán ra do Công ty Vàng Bạc Đá Quý P cung cấp là 2.123.000 đồng).

- 01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng và 03 chìa khóa bằng kim loại màu trắng dùng để khóa tủ đựng tiền do chị Nguyễn Thị Mỹ C giao nộp.

Tại bản Cáo trạng số 171/CT-VKS ngày 07/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Thị Thu T về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại. Về vật chứng đề nghị trả lại cho bị hại C số tiền 6.800.000 đồng, 01 sợi dây chuyền bằng kim loại qua giám định có giá trị là 2.123.000 đồng, 01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng và 03 chìa khóa bằng kim loại màu trắng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định Nguyễn Thị Thu T làm công tại tiệm uốn tóc AH của chị Nguyễn Thị Mỹ C ở số 2049 Đường H, Phường 6, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ khoảng cuối tháng 7/2018, lợi dụng lúc tiệm uốn tóc không có người, T nhiều lần lấy chìa khóa mở tủ lén lút chiếm đoạt tiền của chị C. Tổng số tiền T chiếm đoạt của chị C là 115.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thu T đã bị phát hiện và bị Công an bắt giữ.

[3] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm Tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

[4] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo trộm cắp tài sản có tổng giá trị là 115.000.000 đồng, đây là trường hợp định khung tăng nặng “Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Như vậy Hội đồng xét xử có cơ sở xác định hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[6] Xét bị cáo T đã bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Trốn khi đang bị dẫn giải” vào năm 2015, chưa được xóa án tích; mà lại phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm”, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[8] Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận.

[9] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, và tại phiên tòa bị hại chị Nguyễn Thị Mỹ C yêu cầu bị cáo T bồi thường số tiền chiếm đoạt là 115.000.000 đồng. Và bị cáo cũng đồng ý bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại. Xét thấy yêu cầu của bị hại phù hợp cũng như được bị cáo đồng ý, nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[11] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền 6.800.000 đồng, là số tiền còn lại trong tổng số tiền 115.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt của bị hại C; và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại qua giám định có giá trị 2.123.000 đồng là tài sản bị cáo dùng tiền chiếm đoạt của bị hại để mua; do bị cáo giao nộp lại nên trả lại cho bị hại, khấu trừ vào số tiền buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại.

- 01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng và 03 chìa khóa bằng kim loại màu trắng dùng để khóa tủ đựng tiền do chị Nguyễn Thị Mỹ C giao nộp và chị C có yêu cầu nhận lại. Do đó, căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, trả lại cho bị hại.

[12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 và Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thu T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án (Bị cáo được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 26/5/2020 đến ngày 09/6/2020).

- Căn cứ vào các Điều 357, 468, 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu T bồi thường cho chị Nguyễn Thị Mỹ C số tiền 106.077.000 (một trăm lẻ sáu triệu không trăm bảy mươi bảy ngàn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trả lại cho chị Nguyễn Thị Mỹ C:

+ 01 ổ khóa bằng kim loại màu vàng và 03 chìa khóa bằng kim loại màu trắng.

+ Số tiền 6.800.000 đồng, và 01 sợi dây chuyền bằng kim loại qua giám định có giá trị là 2.123.000 đồng

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 29/9/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 8).

- Căn cứ vào Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị Thu T nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.303.850 (năm triệu ba trăm lẻ ba ngàn tám trăm năm mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

274
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 180/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:180/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về