TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 180/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 06 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 205/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 256/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Huyền Tr, sinh năm 1997; cư trú tại: Ấp C, xã Q, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Bị đơn: Anh Hồ Gia B, sinh năm 1997; cư trú tại: Ấp T, xã Ng, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hồ Hoàng Th; cư trú tại: Ấp T, xã Ng, huyện Đ, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Chị Trần Thị Huyền Tr trình bày: Chị và anh Hồ Gia B kết hôn ngày 19/12/2018, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Ngọc Chánh, huyện Đầm Dơi. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cự cãi, thậm chí anh B còn đánh đập nhiều lần khi chị mang thai và sinh con. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải hàn gắn nhưng anh B không khắc phục được nên vợ chồng đã ly thân hơn 6 tháng nay. Hiện tại chị không còn thương anh B nên xin được ly hôn.
Về con chung: Chị và anh B chung sống có 01 người con tên Hồ Trần B Hân, sinh ngày 20/12/2019, do chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị yêu cầu nuôi cháu B Hân, không yêu cầu anh B cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 15,5 chỉ vàng 24k, được cha mẹ hai bên cho trong ngày cưới, hiện do cha chồng là ông Hồ Hoàng Th đang giữ. Khi ly hôn, chị Tr yêu cầu ông Th giao lại số vàng trên để chị được hưởng ½.
Về nợ chung: Chị Tr xác định không có.
- Tại phiên tòa, anh Hồ Gia B xác định các mối quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng mà chị Tr trình bày là đúng. Anh nhận thức việc đánh vợ là sai, mong muốn hàn gắn. Trường hợp cho ly hôn, anh đồng ý giao con cho chị Tr nuôi, còn tài sản thì tự thỏa thuận phân chia.
- Tại phiên tòa, ông Hồ Hoàng Th xác định đang cất giữ 15,5 chỉ vàng 24k của vợ chồng B và Tr, ông đồng ý giao lại để phân chia theo yêu cầu của chị Tr hoặc các bên tự thỏa thuận phân chia, nếu Tòa án cho ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hôn nhân: Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Tr thấy rằng: Anh B thừa nhận do nóng nãy nên nhiều lần đánh chị Tr. Luật Hôn nhân và Gia đình quy định, vợ chồng có nghĩa vụ Th yêu, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau; phải giữ gìn và B vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Mọi hành vi sử dụng bạo lực gia đình để giải quyết mâu thuẫn vợ chồng bị pháp luật nghiêm cấm. Do vậy hành vi của anh B là vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội. Do mâu thuẫn và đánh chị Tr nhiều lần, dẫn đến ly thân, thời gian này, mặc dù gia đình hai bên có tổ chức hòa giải, hàn gắn nhiều lần, bản thân anh B có thiện chí khắc phục sửa chữa lỗi lầm, nhưng chị Tr cương quyết ly hôn. Điều đó cho thấy, việc tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Tr, cho chị Tr được ly hôn với anh B là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.
[2] Về con chung: Tại phiên tòa anh chị thỏa thuận giao cháu B Hân cho chị Tr tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy việc thỏa thuận này là tự nguyện, không trái quy định pháp luật, trong khi cháu B Hân mới 07 tháng tuổi, là con gái và được chị Tr nuôi dưỡng từ khi ly thân đến nay. Do vậy cần tiếp tục giao cháu B Hân cho chị Tr nuôi dưỡng là phù hợp. Chị Tr không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét buộc anh B cấp dưỡng nuôi con.
[3] Về tài sản chung: Chị Tr xác định vợ chồng có 15,5 chỉ vàng 24k, khi ly thân chị giao cho ông Hồ Hoàng Th (cha anh B) quản lý. Tại phiên tòa, chị yêu cầu tự thỏa thuận với ông Th và anh B về việc phân chia. Đây là quyền tự định đoạt của đương sự, nên Tòa án không xem xét giải quyết, trường hợp có tranh chấp, các đương sự có quyền khởi kiện thành vụ án dân sự khác.
[4] Về nợ chung: Chị Tr và anh B xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Do yêu cầu được chấp nhận nên chị Tr phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Huyền Tr. Cho chị Trần Thị Huyền Tr được ly hôn với anh Hồ Gia B.
2. Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận giữa chị Trần Thị Huyền Tr và anh Hồ Gia B. Giao cháu Hồ Trần B Hân, sinh ngày 20/12/2019 cho chị Trần Thị Huyền Tr tiếp tục tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không buộc anh Hồ Gia B có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Anh Hồ Gia B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Trần Thị Huyền Tr phải chịu là 300.000 đồng. Chị Tr đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí hôn nhân sơ thẩm theo biên lai thu tiền số 0010570 ngày 05/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi, chị Tr đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 180/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về tranh chấp ly hôn
Số hiệu: | 180/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về