Bản án 180/2018/HSPT ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 180/2018/HSPT NGÀY 20/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 140/2018/HSPT ngày 10 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo Trần Ngọc Tân T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 08/2018/HS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Bị cáo Trần Ngọc Tân T, sinh năm: 1978. HKTT: Ấp Phước N, xã Mỹ P, huyện M, tỉnh Sóc T. Chỗ ở hiện nay: Ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Nghề nghiệp: Làm thuê. Trình độ văn hóa: 01/12. Dân tộc: kinh. Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Trần Văn T, sinh năm: 1933 (chết) và bà Võ Tuyết N , sinh năm: 1954 (đã chết). Vợ Trần Thị Xa L, sinh năm: 1979, có 02 con, lớn nhất sinh năm: 2001 và nhỏ sinh năm: 2006. Tiền án: không. Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 15/12/2017 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ 15 phút, ngày 16/10/2017 lực lượng Công an huyện K ập vào phòng trọ “Tư Lai” thuộc ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang theo tin tố giác của quần chúng về việc Trần Ngọc Tân T, Nguyễn Chí H và Trần Ngọc H đang thực hiện giao dịch mua bán trái phép chất ma túy. Khi lực lượng Công an ập vào bắt quả tang thì Trần Ngọc Tân T đã có hành vi chống đối lại và bỏ chạy, nhảy xuống biển trốn khỏi hiện trường. Đến ngày 15/12/2017, Trần Ngọc Tân T đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đầu thú.

Quá trình điều tra, Trần Ngọc Tân T thừa nhận như sau: T không thực hiện hành vi mua bán ma túy với Nguyễn Chí H và Trần Ngọc H, ngày Công an khám xét nhà trọ (ngày 25/5/2018) T chỉ đem theo ma túy đến nhà trọ “Tư Lai” để sử dụng chung với Hải và Huynh. Từ tháng 07/2017, T bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, để có ma túy sử dụng T đã đi vào Rạch Giá, nhờ một người chạy xe ôm tên Tèo (không rõ tên thật, địa chỉ) mua dùm 01 bịch ma túy với giá 500.000 đồng. Bằng hình thức trên, T đã đem ma túy về nhà mình tại địa chỉ số 308, Tổ 5, ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang để trong chiếc điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh đã tháo pin, cất giấu ở bát nhang bàn thờ ông địa để sử dụng.

Mở rộng điều tra, T còn khai nhận được người bạn tên Bồ (không rõ nhân thân, địa chỉ) ở tỉnh An Giang cho T một lượng ma túy đá và cần sa để sử dụng. T đem số ma túy đá và cần sa đem cất tại nhà mình số 308, tổ 5, ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang.

* Tang vật thu giữ gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu KECHAODA màu đen, viền dán băng keo đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu xám, đã qua sử dụng;

- 01 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy;

- 01 cái bóp da màu nâu, xám bên trong; 01 giấy chứng minh nhân dân số 371120624, họ tên Nguyễn Kim Lài, sinh ngày 01/01/1983, nguyên quán T phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Nơi ĐKHKTT: ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang cấp ngày 13/06/2017.

- Tiền Việt Nam: 2.755.000 đồng.

- 01 bịch nylon chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, nghi là ma túy đá;

- 01 bịch nylon nhỏ, hàn kín bên trong chứa đựng thảo mộc khô nghiền nhỏ nghi là cần sa;

- 02 bịch nylon nhỏ được hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá;

- 02 bịch nylon nhỏ được hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá (thu giữ trong người của Nguyễn Chí H).

* Tang vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp tại nhà của Trần Ngọc Tân T số 308, Tổ 5, ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang gồm:

- 03 bịch nylon được hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể dạng rắn, màu trắng;

- 01 bịch nylon được hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể mà trắng, dạng rắn trong chiếc điện thoại Nokia màu xanh;

- 01 cành lá thảo mộc khô chứa trong một bịch nylon;

- 01 cây dao tự chế bằng kim loại dài 50 cm, cán dài 13 cm, lưỡi dài 37 cm;

- 03 bộ dụng cụ dùng để hút ma túy;

- 01 cân tiểu ly Amput màu trắng đã qua sử dụng và 01 bao da màu đen;

- 02 cây kéo bằng kim loại, màu trắng (một cây dài 15 cm, 01 cây dài 16cm);

- 30 túi nylon.

* Tại bản kết luận giám định số 657/KL-KTHS ngày 27/10/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh K đã kết luận:

- Gói 1: Thảo mộc khô được nghiền nhỏ chứa trong 01 bịch nylon màu trắng, được niêm yết giám định là chất ma túy, loại cần sa. Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,2960 gam; các hạt tinh thể nàu trắng, dạng rắn chứa trong 05 bịch nylon màu trắng được niêm phong giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng mẫu gửi đi giám định là 5,2887 gam.

- Gói 2: Các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, chứa trong 04 bịch nylon màu trắng, được niêm phong gửi đi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng mẫu gửi đi giám định là 1,2112 gam. Cành thảo mộc khô chứa trong bịch nylon màu đen được niêm phong giử đi giám định là chất ma túy, loại cần sa, trọng lượng mẫu gửi đi giám định là 5,8128 gam.

* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/2018/HS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện K đã quyết định: 

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc Tân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc Tân T, 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 15/12/2017.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 11/7/2018, bị cáo Trần Ngọc Tân T kháng cáo với nội dung: Bị cáo kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc Tân T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã tuyên và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang có ý kiến: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc Tân T đã thừa nhận toàn bộ ma túy được Cơ quan điều tra thu giữ tại nhà số 308, tổ 5, ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang là của bị cáo. Theo kết luận giám định số ma túy thu giữ tại nhà của bị cáo có trọng lượng là 1, 2112 gam ma túy loại Methamphetamine và cành thảo mộc khô chứa trong bịch ny lon được giám định là cây cần sa có trọng lượng 0.2960 gam. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 để tuyên xử bị cáo mức án 02 năm tù là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Tân T trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Vào khoảng 01 giờ 15 phút ngày 16/10/2017, qua tố giác của quần chúng Trần Ngọc Tân T và Nguyễn Chí H, Trần Ngọc H đang thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy, Công an huyện K đã khám xét tại phòng trọ “Tư Lai” thuộc ấp A, xã N, huyện K, tỉnh Kiên Giang. Thu giữ tang vật gồm 03 bịch nylon chứa các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn, 01 bịch chứa thảo được nghiền nhỏ và 02 bịch có các hạt tinh thể màu trắng thu giữ trên người Nguyễn Chí H. Sau khi khám xét, Trần Ngọc Tân T đã chống đối và nhảy xuống biển trốn khỏi hiện trường. Ngay sau đó, Công an huyện K đã khám xét nhà của Trần Ngọc Tân T thu giữ được 04 bịch nylon được hàn kín bên trong chứa các hạt tinh thể dạng rắn, màu trắng và 01 cây dạng cỏ màu xanh, đã qua sử dụng. Nguồn ma túy có được theo Trần Ngọc Tân T khai nhận do nhờ người tên Tèo ở Thành phố Rạch Giá mua dùm và người bạn tên Bồ ở An Giang cho bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo không biết rõ nhân thân và địa chỉ hai người trên.

Tại kết luận giám định số 657/KL-KTHS ngày 27/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang đã kết luận các hạt tinh thể trong suốt không đồng nhất được thu giữ khi khám xét là chất ma túy, loại Methamphetamine, có trọng lượng 5,2887 gam và 01 bịch thảo mộc được nghiền nhỏ, là chất ma túy, loại cần sa, có trọng lượng 0,2960 gam. Đồng thời, kết luận giám định tang vật thu giữ khi khám xét nhà của Trần Ngọc Tân T là các hạt tinh thể màu trắng, dạng rắn chứa trong 04 bịch nylon là chất ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 1,212 gam và cành thảo mộc khô chứa trong bịch nylon màu đen, được giám định là chất ma túy, loại cần sa, có trọng lượng là 5,8128 gam (BL 31). Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo Trần Ngọc Tân T không thừa nhận thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy với Nguyễn Chí H, Trần Ngọc H.

Bị cáo T thừa nhận chỉ có sử dụng ma túy chung với H, H tại phòng trọ Tư Lai; đồng thời, bị cáo T thừa nhận lượng ma túy Công an thu giữ tại nhà bị cáo là do bị cáo cất giữ để nhằm mục đích sử dụng. Do đó, Tòa án sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có cơ sở, đúng quy định pháp luật.

[3] Bị cáo là người đã T niên, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý thuộc trường hợp nghiêm trọng; hành vi tàng trữ trái phép hai loại chất ma túy Methamphetamine được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015 với trọng lượng 1,212 gam đã đủ định lượng để cấu T tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, đủ nhận thức được rằng ma túy là chất gây nghiện không chỉ làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, nhân cách, đạo đức của người sử dụng mà còn là nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, dễ phát sinh các tội phạm khác. Do đó, Nhà nước độc quyền quản lý và nghiêm cấm mọi hành vi trái phép liên quan đến ma túy nhưng bị cáo lén lút mua và tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ, tác động xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó, cần có mức án thật nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo; đồng thời để phòng ngừa chung cho xã hội.

Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc xem xét các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là T khẩn khai báo, ăn năn hối cải chưa có tiền án, tiền sự để áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 để tuyên phạt bị cáo mức án 02 năm tù là tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do bị cáo ăn năn, hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nhưng các tình tiết giảm nhẹ này đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015, nên không có cơ sở để HĐXX xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Do đó, HĐXX thống nhất chấp nhận ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm với số tiền 200.000 đồng.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm 08/2018/HS-ST ngày 06 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Kiên Giang.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Ngọc Tân T.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc Tân T, 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 15/12/2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Đề nghị Cơ quan điều tra thuộc Công an huyện K tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Trần Ngọc Tân T, Nguyễn Chí H, Trần Ngọc H, người tên Tèo ở T phố Rạch Giá, người tên Bồ ở An Giang thì đề nghị xử lý theo quy định pháp luật.

[2] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm với số tiền 200.000 đồng.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

276
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 180/2018/HSPT ngày 20/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:180/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về