Bản án 179/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 179/2020/HS-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 169/2020/TLST-HS ngày 05 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 222/2020/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 11 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S; sinh năm 1976, tại tỉnh B; nơi cư trú: 13 ấp A, xã P, huyện M, tỉnh B; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B1 (chết) và bà Nguyễn Thị T (chết); có vợ và 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 27/02/2014, Công an xã P, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Tỉnh B xử phạt hành chính số tiền 2.750.000 đồng, về hành vi gây mất an ninh trật tự khu dân cư; có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ.

- Ngày 03/11/2020, Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang kết án 05 tháng 01 ngày tù (bằng thời hạn tạm giam - đã chấp hành xong hình phạt tù), về tội “Đánh bạc” (Bản án số: 32/2020/HS-ST).

Bị bắt, tạm giam trong vụ án này từ ngày 03/11/2020 đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Bà Mai Thị D, sinh năm: 1973; nơi cư trú: 118/2 đường A, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, (có mặt)

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Đoàn Văn N, sinh năm 1976 - Luật sư của Công ty Luật TNHH Đ, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Ngọc S và bà Mai Thị D chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà số 118/2 đường A, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng 06 giờ, ngày 19/01/2017, S nhìn thấy bà D có một túi xách (bên trong có số tiền 80.000.000 đồng) được để trong cốp dưới yên xe gắn máy hiệu Honda PCX, biển số 59H1-590.55, xe dựng trong nhà, chìa khóa vẫn cắm trong ổ khóa công tắc xe. Bà D khóa cửa nhà và đưa chìa khóa nhà cho S giữ. Sau đó, S điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Dream biển số 52H7-5781 chở bà D đến địa điểm buôn bán gà tại lề đường A, Phường 16, Quận 8 (không rõ địa chỉ cụ thể). Tiếp đó, S điều khiển xe gắn máy trên đến khu vực Quận 5 phụ giúp em của bà D làm công việc thu gom rác.

Đến khoảng 13 giờ, cùng ngày 19/01/2017, S được người thân báo tin ông Nguyễn Văn B (cha ruột của S) bị bệnh nặng. Do muốn có tiền về quê chăm lo bệnh cho cha nên S nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của bà D gồm số tiền 80.000.000 đồng cùng chiếc xe gắn máy hiệu Honda PCX, biển số 59H1-590.55 (ý định chiếm đoạt xe làm phương tiện đi lại). Thực hiện ý định trên, lợi dụng lúc bà D không có mặt tại nhà, S điều khiển xe gắn máy biển số 52H7-5781 về để tại nhà bà D, rồi mở túi xách chiếm đoạt số tiền 80.000.000 đồng và điều khiển xe gắn máy Honda PCX, biển số 59H1-590.55 về quê tại số 13 ấp A, xã P, huyện M, tỉnh B. Tuy nhiên, khi S về đến quê nhà thì ông B đã chết.

Khoảng 17 giờ ngày 19/01/2017, bà D về nhà thì phát hiện bị mất trộm số tài sản trên. Do nghi ngờ S là người chiếm đoạt tài sản của mình nên bà D gọi điện thoại cho S thì được S thừa nhận và cho biết đã sử dụng 47.000.000 đồng (trong số tiền 80.000.000 đồng chiếm đoạt của bà D) để phụ lo chi phí đám tang của ông B, còn lại số tiền 33.000.000 đồng, S dùng tiêu xài cá nhân. Khoảng 22 giờ ngày 20/01/2017, bà D về Tỉnh B gặp S thì phát hiện chiếc xe gắn máy Honda PCX, biển số 59H1-590.55 đang dựng trong nhà nên yêu cầu thì được S trả lại xe. Riêng số tiền 80.000.000 đồng, S hẹn đến ngày 04/02/2017 sẽ trả lại cho bà D. Sau đám tang của ông B, S được gia đình hoàn trả số tiền 47.000.000 đồng, có được tiền S không trả lại cho bà D mà đã dùng tiêu xài cá nhân hết số tiền này, sau đó bỏ trốn khỏi địa phương.

Đến ngày hẹn, bà D đến tìm gặp S thì biết được tin S đã bỏ trốn nên ngày 07/02/2017, bà D đến Công an Phường 16, Quận 8 trình báo vụ việc bị S chiếm đoạt tài sản. Ngày 30/01/2018, Công an phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện S nên giữ và bàn giao S cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8 xử lý. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 8, S đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt tài sản nêu trên. Trong thời gian Cơ quan điều tra xử lý tin báo tội phạm, S đã bỏ trốn.

Ngày 16/3/2017, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận xác định giá trị còn lại của chiếc xe gắn máy Honda PCX, biển số 59H1-590.55 là 48.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản S chiếm đoạt của bà D là 128.000.000 đồng.

Ngày 11/4/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 khởi tố vụ án và ngày 03/5/2018 khởi tố bị can đối với Nguyễn Ngọc S về tội “Trộm cắp tài sản”. Do S bỏ trốn nên Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã. Ngày 02/6/2020, S thực hiện hành vi “Đánh bạc” và bị Công an huyện G, tỉnh K bắt quả tang. Ngày 03/11/2020, Tòa án nhân dân huyện G xét xử, tuyên phạt S 05 tháng 01 ngày tù về tội “Đánh bạc” (thời hạn tù bằng thời hạn tạm giam).

Qua xác minh, xe gắn máy Honda PCX, biển số 59H1-590.55 do bà D đứng tên đăng ký. Ngày 01/12/2018, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, lập biên bản trả lại xe cho bà D.

Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra, bị hại Mai Thị D yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 80.000.000 đồng, là số tiền bị cáo chiếm đoạt của bà D nhưng không thu hồi được.

Tại bản Cáo trạng số 168/CT-VKS ngày 05/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Trộm cắp tài sản”, theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa,

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo từ 03 năm đến 04 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của bị hại.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận; bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại Mai Thị D trình bày: Về trách nhiệm dân sự, yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trình bày: Thống nhất với tội danh và điều khoản Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã gây thiệt hại và khó khăn về kinh tế cho bị hại vì thời điểm đó giáp Tết, sau đó quá trình điều tra bị cáo bỏ trốn gây khó khăn cho việc điều tra và đến nay cũng chưa bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại; tại phiên tòa bị cáo chưa thật sự thành khẩn khai báo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị buộc bị cáo bồi thường thiệt hại theo yêu cầu của bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định vào khoảng 13 giờ, ngày 19/01/2017, tại nhà số 118/2 đường A, Phường 16, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Ngọc S có hành vi lén lút chiếm đoạt của bà Mai Thị D các tài sản gồm: số tiền 80.000.000 đồng và 01 xe gắn máy hiệu Honda PCX, biển số 59H1- 590.55, có trị giá là 48.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt của bà D là 128.000.000 đồng.

[3] Mặc dù hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện trước 00 giờ ngày 01/01/2018 (ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực thi hành) nhưng tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có nội dung tương đồng, phù hợp với tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, việc Cơ quan điều tra khởi tố, Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là phù hợp.

[4] Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Trộm cắp tài sản” như sau:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng:

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. ”

[5] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Như vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.

[7] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận.

[8] Sau khi phạm tội trong vụ án này, bị cáo đã bỏ trốn và bị cơ quan điều tra ra quyết định truy nã. Trong thời gian bị truy nã, ngày 02/6/2020, bị cáo tiếp tục phạm tội “Đánh bạc” tại huyện G, tỉnh K và bị Toà án nhân dân huyện G kết án 05 tháng 01 ngày tù. Ngoài ra, năm 2014, bị cáo còn bị Công an xã P, huyện M, tỉnh B xử phạt hành chính về hành vi gây mất an ninh trật tự khu dân cư; có hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi hành công vụ. Do đó, khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân, ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Mai Thị D yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại số tiền bị chiếm đoạt là 80.000.000 đồng. Xét thấy, đây là thiệt hại do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra đối với bị hại, do đó yêu cầu của bị hại là có căn cứ chấp nhận. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các điều 584, 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại theo mức yêu cầu của bị hại.

[10] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, áp dụng mức hình phạt cao, nghiêm khắc đối với bị cáo. Xét trị giá tài sản bị cáo chiếm đoạt của bị hại là 128.000.000 đồng là cao hơn mức trung bình khung trị giá thiệt hại của tình tiết định khung tăng nặng quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Do đó, về trách nhiệm hình sự, mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo cần phải nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo. Như vậy, ý kiến tranh luận và đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại về áp dụng mức hình phạt cao, nghiêm khắc đối với bị cáo là có cơ sở xem xét.

[11] Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại đã thu hồi về được một phần tài sản bị chiếm đoạt. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo

[12] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[13] Về vật chứng vụ án, quá trình điều tra, xe gắn máy hiệu Honda PCX, biển số 59H1- 590.55 đã thu hồi trả cho bị hại, đồng thời bị hại không có ý kiến, yêu cầu gì liên quan đến việc tạm giữ, xử lý vật chứng nên không đề cập giải quyết.

[14] Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại các điều 23, 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/11/2020.

- Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và các điều 357, 468, 584 và 589 Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc S bồi thường cho bà Mai Thị D số tiền 80.000.000 (tám mươi triệu) đồng. Thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, cơ quan Thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chưa thi hành đầy đủ khoản tiền bồi thường thiệt hại về tài sản theo mức nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc S nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 4.000.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 179/2020/HS-ST ngày 03/12/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:179/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về