TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 178/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 171/2020/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 282/2020/HSST-QĐ ngày 28 tháng 8 năm 2020, đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Tr V B, sinh năm 1995, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp V, xã C, thị xã T, tỉnh T; chỗ ở: Ấp O, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn:
7/12; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; cha Trần V Gh là bị cáo trong cùng vụ án; mẹ Nguyễn Th T, sinh năm 1973; bị cáo có 02 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1994; vợ Ng H H, sinh năm 1996; có 01 con, sinh năm 2019.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
2. Họ và tên: Ng V B, sinh năm 1989, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã V, thị xã T, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; cha Ng V B, sinh năm 1969; mẹ Th Th (đã chết); bị cáo có 02 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1993.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
3. Họ và tên: Ng V N, sinh năm 1981, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp P, xã PL, thị xã T, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: Không biết chữ; nghề nghiệp: Phụ H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh: tôn giáo: Hòa Hảo; cha Ngu V B (đã chết); mẹ L Th R (đã chết); bị cáo có 05 anh em, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1989; vợ Ng Th T M, sinh năm 1981.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
4. Họ và tên: Ng V H, sinh năm 1964, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã P, huyện PT, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 02/12; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; cha Ng V Ph, sinh năm 1931; mẹ L Th H, sinh năm 1935; bị cáo có 08 anh em, lớn nhất sinh năm 1961, nhỏ nhất sinh năm 1976; vợ Ng Th Ph, sinh năm 1970; bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2000.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
5. Họ và tên: Tr V H, sinh năm 1984, tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã LC, huyện B, tỉnh T; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 01/12; nghề nghiệp: Công nhân; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; cha Tr Th H (đã chết); mẹ H Th Nh, sinh năm 1955; bị cáo có 04 chị em, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1986; vợ Tr Th Ph, sinh năm 1988; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2013.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
6. Họ và tên: L V H, sinh năm 1990, tại tỉnh T; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã HH, huyện CB, tỉnh T; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Công nhân; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; cha L V H, sinh năm 1967; mẹ Đ Th M, sinh năm 1969; bị cáo có 02 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1996; vợ L Th M Ng, sinh năm 1989; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2019.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
7. Họ và tên: Tr V Ph, sinh năm 1988, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp PQ, xã PH, huyện A, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; cha Tr V Gh, sinh năm 1962; mẹ H Th H, sinh năm 1960; bị cáo có 05 anh em, lớn nhất sinh năm 1981, nhỏ nhất sinh năm 1993; vợ H Th Th, sinh năm 1988.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
8. Họ và tên: Ng V H, sinh năm 1973, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp VL1, xã CP, thị xã TC, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: Công nhân; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; cha Ng V Q (đã chết); mẹ Ng Th Q, sinh năm 1942; bị cáo có 09 chị em, lớn nhất sinh năm 1966, nhỏ nhất sinh năm 1986; vợ Ng Th H, sinh năm 1972; bị cáo có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2012.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
9. Họ và tên: Tr V Gh, sinh năm 1972, tại tỉnh A; hộ khẩu thường trú: Ấp VL1, xã CP, thị xã TC, tỉnh A; chỗ ở: Ấp Ồ, xã A, thị xã B, tỉnh B; trình độ học vấn: Không biết chữ; nghề nghiệp: Làm thuê; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; cha Tr V S (đã chết); mẹ H Th K (đã chết); bị cáo có 07 anh em, lớn nhất sinh năm 1960, nhỏ nhất là bị cáo; vợ Ng Th T, sinh năm 1973; bị cáo có 02 con, lớn Tr V B là bị cáo trong cùng vụ án, nhỏ sinh năm 1994.
Tiền án, tiền sự: Không.
Ngày 09/5/2020, bị bắt quả tang, tạm giữ tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương cho đến ngày 19/5/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giữ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu có trong H sơ và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 23 giờ 50 phút ngày 09/5/2020 tại phòng trọ số 40, nhà trọ U Hthuộc ấp Lồ Ồ, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Công an xã n Tây bắt quả tang Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H đang chơi đánh bài binh xập xám thắng thua b ng tiền n n tiến hành thu giữ vật chứng, gồm:
- Số tiền trên chiếu bạc: 6.490.000đ (sáu triệu, bốn trăm chín mươi nghìn đồng);
- 06 (sáu) bộ bài tây 52 lá (03 bộ đã qua sử dụng, 03 bộ chưa sử dụng);
- Thu giữ trong người: Tr V Gh 550.000đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng); Ng V B 7.100.000đ (bảy triệu một trăm nghìn đồng); Ng V H 1.380.000đ (một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng); Tr V Ph 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng); L V H 60.000đ (sáu mươi nghìn đồng); Tr V H 2.450.000đ (hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) Quá trình điều tra, Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H khai nhận:
Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 09/5/2020, B đang ở phòng trọ của mình tại phòng số 40, nhà trọ U H thì thấy N, Tr V H, H đến chơi n n B rủ N, H, H đánh bài binh xập xám thắng thua B tiền và được N, H, H đồng ý. Sau đó, B mua 06 bộ bài tây 52 lá đem về phòng số 40, rồi cùng với N, H, Tr V H bắt đầu chơi đánh bài binh xập xám, mỗi người 01 tụ bài. Trong lúc đánh bạc thì có Gh, B, Ng V H, Ph và H đến tham gia đánh bạc. H đưa tiền đánh chung tụ bài với N, B đưa tiền đánh chung tụ bài với B, còn Gh, Ng V H, Ph dùng bài của những người chơi chính để cá cược thắng thua với nhau. Đến khoảng 23 giờ 50 phút cùng ngày, B, H, Tr V H, N, Gh, B, Ng V H, Ph và H đang đánh bài binh xập xám thì bị Công an xã An Tây bắt quả tang.
Cách thức chơi đánh bài binh xập xám và quy định thắng thua như sau: Có 04 người chơi chính, mỗi người 01 tụ bài, mỗi tụ bài được chia 13 lá bài và sắp xếp phân chia làm ba chi (chi đầu 3 lá, chi giữa 5 lá, chi cuối 5 lá). Mỗi người làm cái một ván xoay tua đều, mỗi ván mỗi người đặt 50.000 đồng. Sau khi sắp xếp bài xong, tụ bài của người làm cái so bài với từng tụ bài còn lại, nếu tụ bài của người làm cái có bài lớn hơn thì thắng 50.000 đồng số tiền tụ người chơi đặt cược, nếu tụ bài của người làm cái có bài nhỏ hơn thì trả 50.000 đồng cho tụ người chơi đặt. Ngoài 04 tụ bài chơi chính, những người còn lại dùng bài của người chơi chính để cá cược thắng thua với nhau. Quy định lớn nhất là bộ binh (tứ quý, sảnh rồng liên tiếp nhau đồng màu đồng chất, ba cái sảnh, sáu đôi), tiếp đến là cù lũ (ba con giống nhau và một đôi), tiếp đến là tH (05 con đồng màu đồng chất), tiếp đến là sảnh, xám cô (ba con giống nhau), tiếp đến là hai đôi và một đôi.
Số tiền mang theo dùng để đánh bạc và thắng thua của từng người như sau:
Tr V B đem theo 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) chơi 01 tụ chính, khoảng 30 phút sau B thua 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), còn lại 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thì B đến đưa th m 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chơi chung tụ bài với B, thỏa thuận thắng thua chia đôi. Đến khi bị bắt B và B thắng 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc. Ngoài ra, trong quá trình đánh bạc nếu người chơi chính nào thắng hết 03 tụ bài còn lại thì đưa 10.000 đồng – 20.000 đồng tiền xâu cho B bỏ vào cái rổ nhựa để kế bên B ngồi, khi Công an bắt quả tang thu giữ tiền xâu chung vào tiền tang nên B không biết thu được bao nhiêu. Tổng số tiền B sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 850.000đ (tám trăm năm mươi nghìn đồng).
Ng V B đem theo 7.400.000đ (bảy triệu bốn trăm nghìn đồng), lấy ra 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) hùn vốn chơi chung tụ với B, đến khi bị bắt B và B thắng 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ 650.000đ (sáu trăm năm mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc và 7.100.000đ (bảy triệu một trăm nghìn đồng) trong người. B khai nhận nếu thua hết 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) thì B tiếp tục sử dụng 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) để đánh bạc, còn lại 6.000.000đ (sáu triệu đồng) B không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền B sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 1.750.000đ (một triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Ng V N đem theo 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) chơi 01 tụ chính. N chơi được mấy ván bài không thắng không thua vẫn còn đủ 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) thì H đến xin hùn chơi chung tụ bài với N nhưng do H không đem theo tiền nên N bỏ ra trước 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), khi nào nghỉ chơi thì chia đôi tiền thắng thua. Đến khi bị bắt N và H thắng 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng) nhưng đã đưa 10.000 đồng tiền xâu cho B, còn lại 3.190.000đ (ba triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) bị thu giữ trên chiếu bạc. Tổng số tiền N sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng).
Ng V H đến chơi đánh bạc không đem theo tiền nhưng thỏa thuận hùn chơi chung tụ bài với N, N bỏ ra trước 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng), khi nào nghỉ chơi thì chia đôi tiền thắng thua. Đến khi bị bắt N và H thắng 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng) nhưng đã đưa 10.000 đồng tiền xâu cho B, còn lại 3.190.000đ (ba triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) bị thu giữ trên chiếu bạc. Tổng số tiền H sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng).
Tr V H đem theo 2.700.000đ (hai triệu bảy trăm đồng), lấy ra 250.000đ (hai trăm nghìn đồng) để trên chiếu bạc chơi 01 tụ chính. Đến khi bị bắt H thắng 1.450.000đ (một triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ 1.700.000đ (một triệu bảy trăm nghìn đồng) trên chiếu bạc và 2.450.000đ (hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) trong người. H khai nhận nếu thua hết 250.000đ (hai trăm nghìn đồng) thì H tiếp tục sử dụng 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng) để đánh bạc, còn lại 2.000.000đ (hai triệu đồng) H không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền H sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 2.150.000đ (hai triệu một trăm năm mươi nghìn đồng).
L V H đem theo 760.000đ (bảy trăm sáu mươi nghìn đồng), lấy ra 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) để trên chiếu bạc chơi 01 tụ chính, đến khi bị bắt H không biết thắng hay thua tiền đang để trên chiếu bạc bị thu giữ trong tiền tang và bị thu giữ 60.000đ (sáu mươi nghìn đồng) trong người không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền H sử dụng đánh bạc là 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng).
Tr V Ph đem theo 2.760.000đ (hai triệu bảy trăm sáu mươi nghìn đồng) nhưng chỉ sử dụng 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Ph không chơi tụ chính mà sử dụng tụ bài của Tr V H cá cược với tụ bài của H, mỗi ván đặt cược 100.000 đồng. Đến khi bị bắt Ph thắng 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), bị thu giữ trong người 3.060.000đ (ba triệu không trăm sáu mươi nghìn đồng), trong đó 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc và 2.560.000đ (hai triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền Ph sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 500.000đ (năm trăm nghìn đồng).
Ng V H đem theo 1.330.000đ (một triệu ba trăm ba mươi nghìn đồng) nhưng chỉ sử dụng 330.000đ (ba trăm ba mươi nghìn đồng) để đánh bạc. Ng V H không chơi tụ chính mà sử dụng tụ bài của Tr V H cá cược với Gh (Gh sử dụng tụ bài của N), mỗi ván đặt cược 50.000 đồng. Đến khi bị bắt Ng V H thắng 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ trong người 1.380.000đ (một triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng), trong đó có 380.000đ (ba trăm tám mươi nghìn đồng) sử dụng đánh bạc và 1.000.000đ (một triệu đồng) không sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền Ng V H sử dụng đánh bạc và tiền thắng là 380.000đ (ba trăm tám mươi nghìn đồng).
Tr V Gh đem theo 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng) sử dụng đánh bạc. Gh không chơi tụ chính mà sử dụng tụ bài của N cá cược với Ng V H (Ng V H sử dụng tụ bài của Tr V H), mỗi ván đặt cược 50.000 đồng. Đến khi bị bắt Gh thua 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), bị thu giữ 550.000đ (năm trăm năm mươi nghìn đồng) trong người mục đích sử dụng đánh bạc. Tổng số tiền Gh sử dụng đánh bạc là 600.000đ (sáu trăm nghìn đồng).
Như vậy, tổng số tiền Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H sử dụng để đánh bạc là 9.470.000đ (chín triệu, bốn trăm bảy mươi nghìn đồng).
Bản Cáo trạng số 188/CT-VKSBC, ngày 19 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, qua phần xét hỏi và tranh tụng công khai đại diện Viện Kiểm sát giữa nguy n quan điểm truy tố và buộc tội các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ:
Các điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Tr V B, số tiền 25.000.000 – 30.000.000 đồng.
Xử phạt bị cáo Ng V N, số tiền 25.000.000 – 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Tr V H, số tiền 25.000.000 – 30.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo L V H, số tiền 22.000.000 – 25.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Tr V Gh, số tiền 20.000.000 – 22.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Ng V B, số tiền 20.000.000 – 22.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Ng V H, số tiền 20.000.000 – 22.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Tr V Ph, số tiền 20.000.000 – 22.000.000 đồng. Xử phạt bị cáo Ng V H, số tiền 25.000.000 – 30.000.000 đồng. Về xử lý vật chứng:
Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị: Tịch thu sung quỷ Nhà nước 9.470.000 đồng. Quản thủ thi hành án của Ng V B 6.000.000 đồng; Ng V H 1.000.00 đồng; Tr V Ph 2.560.000 đồng; L V H 60.000 đồng và Tr V H 2.000.000 đồng và đề nghị tịch thu tiêu hủy 06 bộ bài tây 52 lá.
Tại phiên tòa, các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản Cáo trạng số 188/CT-VKSBC, ngày 19 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát đã truy tố.
Tại phần tranh luận, các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, thống nhất với nội dung cáo trạng, quan điểm luận tội và mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
Lời nói sau cùng các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm số tiền phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đã đề nghị vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, các bị cáo đều là người làm thuê.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tó tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về xác định hành vi phạm tội của các bị cáo Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong H sơ vụ án, được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận vào lúc 23 giờ 50 phút ngày 09/5/2020 tại phòng trọ số 40, nhà trọ U Hthuộc ấp Lồ Ồ, xã An Tây, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H đã thực hiện đánh bạc trái phép thắng thua b ng tiền. Tổng số tiền các bị cáo dùng để đánh bạc là 9.470.000 đồng. Như vậy, hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua B tiền hay hiện vật giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng …, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Như vậy, bản Cáo trạng 188/CT-VKSBC, ngày 19 tháng 8 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa, kết tội các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H về tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Về tính chất đồng phạm Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, các bị cáo cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, không có sự phân công, cấu kết chặt chẽ nên không xem là phạm tội có tổ chức. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử sẽ phân hóa vai trò của từng bị cáo theo số tiền đánh bạc và người rũ r để làm cơ sở định lượng hình phạt cụ thể: Bị cáo B là người rủ rê các bị cáo khác phạm tội nên vai trò cao hơn các bị cáo còn lại. Các bị cáo còn lại Hội đồng xét xử căn cứ vào số tiền dùng đánh bạc để phân hóa vai trò từ cao xuống thấp, cụ thể: Bị cáo H và N dùng 3.200.000 đồng; Tr V H 2.150.000 đồng; B 1.750.00 đồng; H 700.000 đồng; Gh 600.000 đồng; Ng V H 380.000 đồng và Ph 50.000 đồng.
[4] Về tính chất, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Về tính chất:
Các bị cáo là những người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quản lý trật tự hành chính tại địa Ph và an toàn xã hội nói chung nên cần pH xử lý hình sự để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[2.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4.3] Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[5] Về hình phạt:
Xét, các bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhất thời phạm tội và số tiền dùng vào mục đích đánh bạc không lớn nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền cũng đủ sức răn đe và giáo dục các bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng:
Đối với 06 (sáu) bộ bài tây 52 lá đây là công cụ, Ph tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền các bị cáo dùng vào mục đích đánh bạc là 9.470.000đ (chín triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) Hội đồng xét xử tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Đối với số tiền thu giữ trong người của Ng V B 6.000.000 đồng; Ng V H 1.000.00 đồng; Tr V Ph 2.560.000 đồng; L V H 60.000 đồng và Tr V H 2.000.000 đồng, do các bị cáo này bị phạt tiền nên Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục hoãn thủ để đảm bảo thi hành án.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật và mức hình phạt của các bị cáo là phù hợp nên chấp nhận. Tuy nhiên mức đề xuất phạt 20.000.000 đồng đến 22.000.000 đồng đối với bị cáo B là nhẹ nên Hội đồng xét xử quyết định mức phạt cao hơn đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát.
[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Tr V B, Ng V N, Tr V H, L V H, Tr V Gh, Ng V B, Ng V H, Tr V Ph và Ng V H phạm tội “đánh bạc”.
1. Về hình phạt Áp dụng khoản 1 Điều 321; các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt:
Bị cáo Tr V B, số tiền 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng). Bị cáo Ng V N, số tiền 26.000.000 đồng (hai mưới sáu triệu đồng). Bị cáo Ng V H, số tiền 26.000.000 đồng (hai mưới sáu triệu đồng). Bị cáo Tr V H, số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Bị cáo Ng V B, số tiền 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng). Bị cáo L V H, số tiền 23.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng).
Bị cáo Tr V Gh, số tiền 22.000.000 đồng (hai mươi ba triệu đồng). Bị cáo Ng V H, số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
Bị cáo Tr V Ph số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 06 (sáu) bộ bài tây 52 lá (03 bộ đã qua sử dụng, 03 bộ chưa sử dụng).
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/9/2020 giữa Chi cục Thi hành án thị xã Bến Cát với Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương).
Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 9.470.000 đồng (chín triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) các bị cáo dùng vào đánh bạc.
Tiếp tục hoãn thủ số tiền 6.000.000 đồng của Ng V B; 1.000.000 đồng của Ng V H; 2.560.000 đồng của Tr V Ph; 60.000 đồng của L V H và 2.000.000 đồng của Tr V H để đảm bảo thi hành án.
Số tiền trên được lưu giữ tại Kho bạc Nhà nước thị xã Bến Cát, theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.104605 ngày 14/8/2020.
3. Về án phí Căn cứ các Điều 135; 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 178/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 178/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về