Bản án 178/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T S TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 178/2019/HSST NGÀY 15/10/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 15 tháng 10 năm 2019, tại hội trường UBND xã Phù Chẩn, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số: 176/2019/HSST ngày 17 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/QĐXX- ST ngày 01/10/2019 đối với bị cáo:

Ngô Quế D - Sinh năm 1972.

HKTT: Tổ 5, phố K.Q, phường V.H, quận L.B, thành phố Hà Nội.

Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Bố đẻ: Ngô Thế Th, sinh năm 1942; Mẹ đẻ: Lương Thị C, sinh năm 1942; Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ 3; có vợ là Nguyễn Minh Th1, sinh năm 1981; có 02 con, lớn sinh năm 1997, nhỏ sinh năm 2006.

Tiền án: Có 02 tiền án.

+ Tại Bản án số 117 ngày 28/6/2012 của TAND huyện G.L, thành phố Hà Nội xử phạt D 28 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Ngày 26/01/2014, D chấp hành xong hình phạt ra trại trở về địa phương và đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

+ Tại Bản án số 73 ngày 15/4/2016 của TAND quận L.B, thành phố Hà Nội xử phạt D 32 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đến ngày 21/5/2018 D chấp hành xong hình phạt ra trại trở về địa phương và đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 08/3/2006 bị UBND huyện Đ.A, thành phố Hà Nội ra Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng tại Trung tâm cai nghiện số 1 Ba Vì. Đến năm 2008 D chấp hành xong Quyết định trở về địa phương.

- Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/6/2019 đến nay. Hiện bị can đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi như sau:

Hồi 11 giờ ngày 04/6/2019 tại khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, tổ tuần tra Công an phường Đ.B đã bắt quả tang Ngô Quế D, sinh năm 1972, HKTT: Tổ 5 phố K.Q, phường V.H, quận L.B, thành phố Hà Nội đang có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng tự khai họ tên là: Vũ Văn V, sinh năm 1988, trú tại: Khu phố T.L, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình kiểm tra, Vượng tự nguyện giao nộp cho tổ tuần tra 01 gói nhỏ được bọc bằng lớp giấy màu trắng, bên trong có chất bột màu trắng và khai nhận đó là chất ma túy Heroine do V vừa mua được của D với giá 80.000 đồng. Tổ tuần tra tiến hành kiểm tra D, phát hiện và tạm giữ tại túi áo ngực bên trái của D đang mặc số tiền 80.000 đồng, gồm: 03 tờ tiền polime có các mệnh giá 10.000 đồng có sê ri NJ18666868, 20.000 đồng có sê ri IN18968041 và 50.000 đồng có số sê ri RM147087730. D khai nguồn gốc có được là do D vừa bán ma túy cho V, được V trả. Ngoài ra tổ tuần tra còn thu giữ của V 01 mảnh giấy màu trắng, ghi các chữ và số “Xổ số miền bắc ngày 04/6/2019 RM147087730 NJ18666868 IN18968041”, V khai đó là số sê ri của 03 tờ tiền mà V trả cho D, trước khi mua ma túy V ghi lại với mục đích để chiều mua xổ số. Tổ tuần tra đã tiến hành mời người làm chứng, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đồng thời thu giữ, niêm phong vật chứng và bàn giao D cùng vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S để giải quyết theo thẩm quyền.

Trên cơ sở Quyết định trưng cầu giám định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S, cùng ngày 04/6/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh đã tiến hành giám định và ban hành bản Kết luận giám định số 475/KLGĐMT-PC09, kết luận:

"Cht bột màu trắng bên trong 01 (một) gói nhỏ được bọc ngoài là lớp giấy màu trắng có khối lượng 0,0236 gam;Là ma túy; loại ma túy: Heroine".

Sau giám định, cùng ngày 04/6/2019 Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh đã hoàn lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T.S khối lượng mẫu vật ma túy còn lại sau giám định là 0,0116 gam chất Heroine, tất cả được niêm phong vào trong 01 phong bì thư theo đúng quy định.

Quá trình điều tra Ngô Quế D khai nhận:

D là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma tuý nên khoảng 10 giờ ngày 04/6/2019, D đi xe buýt từ nhà ở quận L.B, thành phố Hà Nội đến địa bàn khu phố C.D, phường Đ.B, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh để tìm mua ma túy. Đến nơi, D xuống xe đi bộ vào trong khu dân cư, tại đây sau đó D thấy có 01 người thanh niên không quen biết có biểu hiện nghiện chất ma túy đang đứng trước cửa một ngôi nhà có cánh cửa bằng sắt màu xanh đóng kín, trên cánh cửa có để một ô trống nhỏ, D quan sát một lúc thì thấy người thanh niên này cầm một gói nhỏ từ trong nhà đẩy ra rồi bỏ đi. Thấy vậy, D biết trong nhà có người bán ma túy, nên sau khi thấy người thanh niên bỏ đi D tiến lại trước cửa ngôi nhà rồi lấy từ trong người ra số tiền 150.000 đồng nhét qua ô trống trên cánh cửa. Bên trong có người cầm tiền rồi đưa ra ngoài cho D 01 gói nhỏ được bọc ngoài bằng lớp giấy màu trắng. D biết đó là gói nhỏ ma túy liền cầm đi bộ ra ngoài. Khi đang đi thì D gặp một người thanh niên không quen biết, người thanh niên này hỏi xin D cho cùng sử dụng ma túy, D đồng ý và chia cho người này một phần gói ma túy vừa mua được, sau đó người thanh niên này cầm phần gói ma túy này nói là đi mua bật lửa sau sẽ quay lại, còn số ma túy còn lại D gói lại vào lớp giấy màu trắng. Trong lúc D đang chờ người thanh niên không quen biết quay lại, lúc này khoảng 11 giờ cùng ngày 04/6/2019 thì có hai nam thanh niên khác D cũng không quen biết đi đến chỗ D (đến khi bị lực lượng Công an bắt giữ D mới biết một người khai họ tên là Vũ Văn V, sinh năm 1988, trú tại: Khu phố T.L, phường Đ.N, thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh, người còn lại khai họ tên là Nguyễn Văn Th, sinh năm 1985, HKTT: thôn N.A , xã T.L, huyện T.T, tỉnh Bắc Ninh). Gặp D, V đặt vấn đề hỏi mua của D 80.000 đồng tiền ma túy Heroine. Thấy vậy D liền đồng ý đưa cho V phần gói ma túy còn lại. V cầm gói ma túy rồi đưa lại cho D số tiền 80.000 đồng (gồm: 03 tờ tiền polime có các mệnh giá 10.000 đồng có sê ri NJ18666868, 20.000 đồng có sê ri IN18968041 và 50.000 đồng có số sê ri RM147087730). Đúng lúc này có lực lượng Công an đi làm nhiệm vụ phát hiện thấy nghi vấn liền kiểm tra bắt quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng như đã nêu ở trên.

Sau khi bắt quả tang, tổ công tác đã đưa các đối tượng cùng vật chứng về trụ sở Công an phường Đ.B để làm việc. Lợi dụng sơ hở của cán bộ trông giữ, đối tượng V đã bỏ trốn. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại địa chỉ theo lời khai của đối tượng, xác định tại địa bàn khu phố T.L, phường Đ.N, thị xã T.S không có người nào có nhân thân, lý lịch như V đã khai nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh.

Đối với anh Nguyễn Văn T là người đã đi cùng V khi V mua ma túy của D. Quá trình điều tra xác định anh T không liên quan đến việc mua bán ma túy giữa V và D nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với anh T.

Tại Cơ quan điều tra, bị can Ngô Quế D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Bản cáo trạng số 161/CT- VKS ngày 16/9/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Ngô Quế D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm q, khoản 2, Điều 251 của BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi bán ma túy cho Vũ Văn Vượng là vi phạm pháp luật. Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng, không oan.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra chứng cứ, lý lẽ và sau khi phân tích, đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết liên quan đến trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Quế D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm q, khoản 2, Điều 251 BLHS; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51, BLHS. Xử phạt bị cáo Ngô Quý D từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 04/6/2019. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định. Tịch thu sung Ngân sách nhà nước số tiền 80.000đ gồm 03 tờ tiền polime có các mệnh giá 10.000 đồng có sê ri NJ18666868, 20.000 đồng có sê ri IN18968041 và 50.000 đồng có số sê ri RM147087730 của D do phạm tội mà có.

Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện Kiểm sát, khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người làm chứng có trong hồ sơ, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là thống nhất với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ của bị cáo, kết luận giám định của Phòng KTHS- Công an tỉnh Bắc Ninh. Đã đủ căn cứ khẳng định, ngày 04/6/2019, Ngô Quý D đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Vũ Văn V, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 BLHS, bản thân bị cáo đã bị đưa ra xét xử 02 lần đến nay chưa được xóa án, lầm phạm tội này là tái phạm nguy hiểm do vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã T.S truy tố bị cáo tội danh trên và theo điểm q, khoản 2, Điều 251 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét tính chất vụ án và nhân thân của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, hành vi phạm tội của bị cáo còn gây tác hại đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, hành vi còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy với bị cáo cần phải có một mức hình phạt tương xứng cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo đủ điều kiện giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 BLHS, gia đình bị cáo có công với nhà nước đây là tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2, Điều 51. Do vậy cần áp dụng cho bị cáo.

Ngoài hình phạt chính là hình phạt tù giam, đối với bị cáo không cần phải áp dụng thêm hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của BLHS năm 2015.

Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47, BLHS; Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định. Tịch thu sung Ngân sách nhà nước số tiền 80.000đ gồm 03 tờ tiền polime có các mệnh giá 10.000 đồng có sê ri NJ18666868, 20.000 đồng có sê ri IN18968041 và 50.000 đồng có số sê ri RM147087730 của D do phạm tội mà có.

Liên quan trong vụ án còn có người đàn ông D nhìn thấy đã mua ma túy trước D; người thanh niên D đưa cho 01 phần ma túy và người trong ngôi nhà đã bán ma túy cho D. Quá trình điều tra, D khai không biết tên tuổi cụ thể, địa chỉ của những người này là ai, ở đâu nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ đề nghị xử lý sau.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Ngô Quế D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” Áp dụng điểm q, khoản 2, Điều 251; Điều 38; điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; điều 47 Bộ luật Hình sự ; Điều 106; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt: Ngô Quế D 07(Bẩy) Năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 04/6/2019. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày 15/10/2019 để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì niêm phong đựng mẫu vật còn lại sau giám định. Tịch thu sung Ngân sách nhà nước số tiền 80.000đ gồm 03 tờ tiền polime có các mệnh giá 10.000 đồng có sê ri NJ18666868, 20.000 đồng có sê ri IN18968041 và 50.000 đồng có số sê ri RM147087730 của D do phạm tội mà có. Theo biên bản bàn giao giữa Công an thị xã T.S với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T.S, tỉnh Bắc Ninh ngày 16/9/2019.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2019/HSST ngày 15/10/2019 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:178/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về