Bản án 178/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 178/2018/HS-ST NGÀY 15/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Hôm nay, ngày 15 tháng 05 năm 2018, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 160/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 03 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 173/2018/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 04 năm 2018 đối với bị cáo:

Lê Trường G - sinh năm 1998, tại huyện Phổ Yên (nay là thị xã Phổ Yên), tỉnh Thái Nguyên. Nơi đăng ký HKTT: xóm HT, xã TT, thị xã PY, tỉnh TN; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; Con ông: Lê Văn H, sinh năm 1974 và bà: Lê Thị T, sinh năm 1977; vợ, con: chưa; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/12/2017 đến nay, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.

*Ngưi làm chứng: Anh Phạm Quang T, sinh năm 1987 (vắng mặt)

HKTT: xóm 5, xã PT, thị xã PY, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do Lê Trường G thích đốt pháo nên trước ngày 5/12/2017 khoảng một tuần, Lê Trường G bắt xe khách từ Thái Nguyên lên Lạng Sơn với mục đích mua pháo nổ về để sử dụng. Khi lên đến chợ Tân Thanh thuộc Văn Lăng, tỉnh Lạng Sơn, G gặp và hỏi mua pháo của một người phụ nữ không quen biết, người phụ nữ đồng ý bán với giá khoảng 1.400.000 đồng đến 1.500.000 đồng, sau đó G đặt cọc 500.000 đồng và hẹn một tuần sau quay lại vị trí này để nhận hàng. Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 4/12/2017 tại vị trí đã hẹn, G đưa thêm 800.000 đồng cho người phụ nữ đó và nhận 01 túi đựng chăn, bên trong có 01 chiếc chăn phủ các loại pháo. Sau khi giao dịch xong, do trời tối nên G đã vào nhà nghỉ thuê phòng ngủ lại, đến khoảng 7 giờ ngày 5/12/2017, G đi xe khách từ bến xe Lạng Sơn về Thái Nguyên. Khoảng 11 giờ cùng ngày, G về đến bến xe khách Thái Nguyên và thuê taxi Mai Linh, BKS 20A-143.25 ( do anh Phạm Quang T, sinh năm 1987, trú tại: Tổ 5, xã PT, thị xã PY, tỉnh TN điều khiển) để chở pháo về thị xã Phổ Yên. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/12/2017 khi xe di chuyển về đến khu vực cổng trường Đại học Công nghiệp Thái Nguyên thuộc tổ 9, phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác của Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ thấy xe ô tô taxi Mai Linh, BKS 20A-143.25 đang đỗ cạnh đường, thanh niên ngồi ghế phụ có nhiều biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu kiểm tra, tổ công tác phát hiện thu giữ trong cốp xe có 01 túi vải bạt đựng 01 chăn lông nhiều màu, bên trong có 03 cuộn dạng pháo nổ gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi cuộn có kích thước 37cm x 6cm; 02 cuộn dạng pháo nổ gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi cuộn có kích thước 28cm x 6cm; 10 bánh dạng pháo tép gồm các vật hình trụ màu đỏ, có kích thước 28,5cm x 4,5cm x1,6cm và 10 quả dạng pháo hoa gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi quả có kích thước mỗi quả 8cm x 1,7cm (G khai là pháo). Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với G, thu giữ, niêm phong vật chứng.

Cùng ngày, tiến hành cân xác định khối lượng:

- 03 cuộn dạng pháo nổ gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi cuộn có kích thước 37cm x 6cm; 02 cuộn dạng pháo nổ gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi cuộn có kích thước 28cm x 6cm; 10 bánh dạng pháo tép gồm các vật hình trụ màu đỏ, có kích thước 28,5cm x 4,5cm x1,6cm (đã bỏ phần vỏ bọc ngoài bằng giấy) có khối lượng 10,5kg. Lấy mẫu gửi giám định lần lượt ký hiệu M1, M2, M3.

- 10 quả dạng pháo hoa gồm các vật hình trụ màu đỏ, mỗi quả có kích thước mỗi quả 8cm x 1,7cm có khối lượng 200 gam. Lấy mẫu giám định ký hiệu M4.

Tại bản Kết luận Giám định số 92/KL-PC54 ngày 6/12/2017 và Công văn số 20/PC54 ngày 26/3/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:

- Các mẫu ký hiệu M1, M2, M3 là pháo nổ, khi bị kích thích (hoặc đốt) có thể gây ra tiếng nổ.

- Mẫu có ký hiệu M4 là pháo, có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo, khi bị kích thích hoặc đốt có gây ra tiếng nổ).

Bản cáo trạng số 166/CT-VKSTPTN ngày 28 tháng 03 năm 2018 của Viện kiêm sat nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Lê Trường G về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Trường G thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, do thích đốt pháo lên đã lên cửa khẩu Tân Thanh mua pháo về để nổ dịp tết và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên sau khi phân tích tội danh đề nghị thay đổi tội danh từ “Vận chuyển hàng cấm” sang tội “Tàng trữ hàng cấm” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Lê Trường G từ 09-12 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải bạt đựng chăn, đã qua sử dụng; 01 chăn lông, nhiều màu sắc; Tịch thu tiêu hủy 10,3 kg pháo nổ các loại số hiệu hộp carton G1; 200 gam pháo nổ. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 Buộc Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.0000đ.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Lê Trường G tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của anh Phạm Quang T là người làm chứng; phù hợp với vật chứng thu giữ, Kết luận giám định của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số pháo thu được là pháo nổ. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do muốn có pháo để đốt nên ngày 04/12/2017 Lê Trường G đi lên chợ Tân Thanh thuộc huyện Văn Lăng, tỉnh Lạng Sơn theo hẹn từ trước đó một tuần mua của một người phụ nữ không quen biết mua 1.300.000đ được 10,5kg pháo nổ và 200gam pháo hoa. Ngày 05/12/2017 G bắt xe khách về Thái Nguyên, đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày Giang bắt taxi do anh Phạm Quang T điều khiển về Phổ Yên, trên đường đi đến Trường Đại học Công nghiệp thuộc tổ 9, phường Tích Lương, thành phố Thái Nguyên thì bị lực lượng công an kiểm tra thu giữ toàn bộ tang vật.

Tại bản kết luận giám định số 92/KL-PC54 ngày 06/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Căn cứ vào biên bản mở niêm phong cân xác định trọng lượng và lấy mẫu vật gửi giám định. Tổng trọng lượng pháo nổ là 10,5kg, tổng trọng lượng pháo hoa (khi bị kích thích, hoặc đốt có gây tiếng nổ) là 200g.

Pháo nổ là mặt hàng cấm kinh doanh theo quy định của nhà nước theo quy định tại tiểu mục 2.3 mục III Thông tư liên tịch 06/2008/TTLT/BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 25/12/2008 hướng dẫn “Pháo nổ có số lượng từ 10 kg đến dưới 50 kg (được coi là số lượng lớn)”. Như vậy với hành vi mua 10,5 kg pháo nổ từ Lạng Sơn về Thái Nguyên với mục đích sử dụng, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định khoản 1 Điều 155 Bộ luật Hình sự 1999.

Điều 155 Bộ luật hình sự 1999 quy định:

“1. Người nào..... tàng trữ hàng hóa mà Nhà nước cấm kinh doanh có số lượng lớn....nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 193, 194,195,196, 230, 232, 233, 236 và 238 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm”.

[2] Xét tính chất, mức độ, hành vi: tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo xâm phạm tới hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước đối với những loại hàng hóa mà pháp luật cấm kinh doanh, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Vì vậy cần phải được xử lý bằng pháp luật hình sự.

[3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: bị cáo chưa có tiền án tiền sự, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; Hội đồng xét xử xem xét cân  nhắc giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 155 Bộ luật hình sự 1999 quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng..“ do đó bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên xét bị cáo mua pháo nổ mục đích để sử dụng, do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng vụ án: Đối với túi vải đựng chăn, 01 chăn lông 10,5kg pháo nổ các loại, 200gam pháo hoa cần tịch thu tiêu hủy;

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[7]Về nguồn gốc số pháo Lê Trường G khai mua số pháo trên của một người phụ nữ không quen biết tại khu vực cửa khẩu Tân Thanh thuộc huyện Văn Lăng, tỉnh Lạng Sơn, do không xác định được lai lịch, địa chỉ, nên không có căn cứ để làm rõ.

[8] Đối với anh Phạm Quang T là người điều khiển xe taxi BKS 20A.143.25 chở G cùng số pháo nêu trên về thị xã Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, quá trình điều tra xác định anh Thảo không biết G thực hiện hành vi phạm tội nên cơ quan điều tra không xem xét.

Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa như phân tích ở trên có phần nghiêm khắc.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Trường G phạm tội "Tàng trữ hàng cấm"

[2] Về hình phạt: khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự 1999; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Xử phạt: Lê Trường G 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/12/2017.

Áp dụng Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự, Quyết định tạm giam bị cáo Lê Trường G 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

[3] Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a,c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

-Tịch thu tiêu hủy 01 túi vải bạt đựng chăn, đã qua sử dụng; 01 chăn lông kích thước 1m80x2m30, nhiều màu sắc, đã qua sử dụng. (Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 209 lập ngày 28/03/2018).

- Tịch thu tiêu hủy 10,5 kg pháo nổ các loại số hiệu hộp carton G1; 200 gam Pháo hoa số hiệu phong bì G2 (ghi 05 quả pháo hoa) (Theo như biên bản số 01/NVC/2018 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên với Đại đội kho 29 Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thái Nguyên)

[5] Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Trường G phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm

[6] Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Lê Trường G có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

447
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 178/2018/HS-ST ngày 15/05/2018 về tội tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:178/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về